TCCS - Đảng ta luôn khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh và động lực quan trọng cho phát triển bền vững. Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử, truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội”(1). Sau sáp nhập, việc tăng cường liên kết vùng để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa đối với Ninh Bình mang ý nghĩa chiến lược, vừa gìn giữ bản sắc, vừa nâng tầm giá trị kinh tế - xã hội của di sản, tạo đột phá để tỉnh phát triển trong giai đoạn mới.

Từ yêu cầu khách quan đến phương thức tổ chức phát triển hiện đại

Về lý luận, liên kết vùng được hiểu là quá trình phối hợp có chủ đích, có tổ chức giữa các địa phương trong một không gian địa lý - kinh tế - văn hóa tương đối đồng nhất, nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh, tối ưu hóa phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực, giảm chi phí giao dịch, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công, gia tăng năng lực cạnh tranh tổng thể. Trong lĩnh vực văn hóa, liên kết vùng không chỉ mang ý nghĩa hợp tác về hoạt động sự vụ, mà còn là cơ chế phối hợp chiến lược, tạo sự cộng hưởng và lan tỏa giá trị. Liên kết vùng sẽ giúp: 1) Quản trị không gian di sản (tự nhiên, vật thể và phi vật thể) vượt khỏi ranh giới hành chính, bảo đảm sự thống nhất trong bảo tồn và phát huy. 2) Hài hòa lợi ích giữa mục tiêu bảo tồn và yêu cầu khai thác hợp lý. 3) Tạo lập hệ sinh thái giá trị dựa trên di sản, công nghiệp văn hóa, du lịch văn hóa, kinh tế đêm và các ngành dịch vụ sáng tạo. 4) Lan tỏa chuẩn mực văn hóa, thúc đẩy hình thành môi trường văn hóa lành mạnh, nếp sống văn minh trong toàn vùng.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”(2). Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài viết “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển văn hóa, xã hội, hài hòa và ngang tầm với phát triển kinh tế”, “quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu “phát triển văn hóa ngang tầm với kinh tế, chính trị, xã hội”(3). Kết luận số 156-KL/TW, ngày 21-5-2025, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” và Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4-6-2020, của Bộ Chính trị khóa XII “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW” chỉ rõ: “Khẩn trương hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách và ưu tiên bổ sung nguồn lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn mới; huy động mọi nguồn lực, động lực xây dựng và phát triển văn hóa, con người”(4).

Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23-11-2022, của Bộ Chính trị “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định rõ định hướng: phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, tăng cường liên kết nội vùng và liên vùng; coi du lịch, dịch vụ, kinh tế ban đêm, công nghiệp văn hóa là những động lực tăng trưởng mới; đồng thời, giữ gìn, tôn tạo và phát huy giá trị hệ thống di sản đặc sắc của vùng. Tư tưởng xuyên suốt là gắn kết chặt chẽ giữa bảo tồn và phát huy văn hóa với phát triển kinh tế xanh, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu và xây dựng đô thị bền vững(5).

Có thể thấy, liên kết vùng trong bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa không chỉ là nhu cầu nội tại của tiến trình phát triển, mà còn là sự cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển bền vững đất nước. Đây vừa là phương thức tổ chức phát triển hiện đại, vừa là giải pháp chiến lược để hiện thực hóa mục tiêu nâng tầm văn hóa ngang hàng với kinh tế và chính trị, bảo đảm cho sự phát triển nhanh, bền vững của từng địa phương và cả quốc gia trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.

Vị trí, vai trò và yêu cầu tăng cường liên kết vùng sau sáp nhập

Tỉnh Ninh Bình nằm ở cửa ngõ phía nam đồng bằng sông Hồng, giữ vị trí chiến lược kết nối giữa Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Đây là vùng đất hội tụ nhiều giá trị nổi bật về lịch sử, văn hóa và cảnh quan thiên nhiên. Tỉnh Ninh Bình sở hữu hệ thống di sản đặc sắc, trong đó tiêu biểu là Quần thể danh thắng Tràng An - Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới (di sản kép), Cố đô Hoa Lư - kinh đô đầu tiên của Nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam, chùa Bái Đính - trung tâm Phật giáo lớn, nhà thờ đá Phát Diệm - công trình kiến trúc tôn giáo độc đáo, cùng hệ sinh thái đất ngập nước Vân Long - “vịnh không sóng” giàu giá trị đa dạng sinh học. Bên cạnh đó là kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú, như lễ hội Tràng An, lễ hội Hoa Lư, hát Xẩm, chèo, các làng nghề truyền thống, ẩm thực đặc sắc từ dê núi với cơm cháy…

Với tiềm năng và lợi thế này, tỉnh Ninh Bình giữ vai trò là một cực quan trọng trong trục liên kết du lịch - văn hóa với tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình (tỉnh Phú Thọ); đồng thời có khả năng trở thành điểm trung chuyển trong các “cung đường di sản” liên vùng, như: Tràng An - Hoa Lư - Phố Hiến - Thăng Long - Hạ Long - Thành nhà Hồ. Sau sáp nhập đơn vị hành chính, bộ máy quản lý của Ninh Bình được tinh gọn hơn, là điều kiện thuận lợi để tỉnh tập trung nguồn lực, thống nhất quy hoạch và chuẩn hóa quy trình quản trị di sản. Tuy nhiên, yêu cầu đặt ra rất rõ ràng: khắc phục tình trạng trùng lặp chức năng giữa các cơ quan; nâng cao năng lực phối hợp liên ngành; xây dựng cơ chế liên kết vùng có tính ràng buộc, hiệu lực cao; đồng bộ hóa dữ liệu số phục vụ bảo tồn, phát huy di sản; bảo đảm sự tham gia thực chất của cộng đồng, doanh nghiệp và hệ thống thiết chế văn hóa ở cơ sở.

Trong bối cảnh nguồn lực địa phương còn hạn chế, liên kết vùng trở thành giải pháp mang tính chiến lược, tạo “đòn bẩy” để tỉnh huy động vốn đầu tư, tiếp cận công nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và học hỏi kinh nghiệm quản trị di sản theo chuẩn mực quốc tế, qua đó nâng cao hiệu quả bảo tồn, phát huy giá trị di sản gắn với phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Thực trạng bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa gắn với liên kết vùng ở tỉnh Ninh Bình

Những kết quả bước đầu

Thứ nhất, công tác bảo tồn các di sản thiên nhiên và văn hóa trọng điểm, đặc biệt là Quần thể danh thắng Tràng An và Khu di tích lịch sử - văn hóa Cố đô Hoa Lư, tiếp tục được tỉnh quan tâm, triển khai đồng bộ theo hướng kết hợp bảo tồn nguyên trạng với tôn tạo, phục dựng có chọn lọc. Nhiều hạng mục hạ tầng, cảnh quan và dịch vụ được cải thiện, góp phần giữ gìn giá trị nổi bật toàn cầu (OUV)(6) của di sản, đồng thời đáp ứng nhu cầu trải nghiệm ngày càng đa dạng của du khách. Bước đầu, tỉnh đã xây dựng và ban hành quy chế phối hợp điều hành giữa cấp ủy, chính quyền địa phương, các đơn vị quản lý di tích và doanh nghiệp du lịch, qua đó gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ cảnh quan với phát triển dịch vụ du lịch bền vững.

Thứ hai, hoạt động liên kết tour, tuyến du lịch văn hóa giữa tỉnh Ninh Bình và các địa phương lân cận, như thành phố Hà Nội, tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình (tỉnh Phú Thọ),… ngày càng phong phú, đa dạng về loại hình và quy mô. Các sản phẩm du lịch sinh thái, du lịch lễ hội, du lịch tín ngưỡng - tôn giáo, du lịch cộng đồng được mở rộng và nâng cao chất lượng; thời gian khai thác được kéo dài hơn thông qua việc tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao, lễ hội quy mô vùng, giúp phân bổ đều hơn lượng khách trong năm và gia tăng hiệu quả kinh tế - xã hội.

Thứ ba, công tác quảng bá hình ảnh và thương hiệu điểm đến được chú trọng, với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan truyền thông cùng người dân. Tỉnh Ninh Bình liên tục được xếp hạng và đề cử trong các danh sách điểm đến hấp dẫn của Việt Nam và quốc tế, như “Top 10 điểm đến thân thiện nhất thế giới”, “Điểm đến du lịch hàng đầu châu Á”,… qua đó nâng cao vị thế và sức hút của thương hiệu “Di sản Ninh Bình” trên bản đồ du lịch toàn cầu.

Thứ tư, nhiều làng nghề truyền thống, sản phẩm OCOP gắn với các giá trị văn hóa - ẩm thực - mỹ nghệ của địa phương được khôi phục, bảo tồn và phát triển, kết nối vào chuỗi giá trị du lịch. Điều này không chỉ góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch, gia tăng trải nghiệm cho du khách, mà còn tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, giữ gìn bản sắc và truyền thống văn hóa lâu đời của cộng đồng.

Hạn chế và những “điểm nghẽn”

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa gắn với liên kết vùng ở tỉnh Ninh Bình vẫn còn một số hạn chế, “điểm nghẽn” cần sớm được khắc phục như sau:

Một là, chưa hình thành được cơ chế liên kết vùng mang tính ràng buộc trong lĩnh vực văn hóa - di sản. Phần lớn các thỏa thuận hợp tác mới dừng lại ở phạm vi dự án hoặc chương trình thời vụ, chưa trở thành “quy tắc vận hành chung” với những quy định rõ ràng về chia sẻ dữ liệu, áp dụng tiêu chuẩn dịch vụ và cơ chế phân bổ lợi ích giữa các bên. Điều này khiến cho tính bền vững và hiệu quả của việc liên kết vùng chưa cao.

Hai là, quy hoạch không gian di sản và quy hoạch dịch vụ - hạ tầng du lịch thiếu đồng bộ, liên thông. Tại một số điểm đến, khi vào mùa cao điểm du lịch vẫn xảy ra hiện tượng quá tải cục bộ, tiềm ẩn nguy cơ xâm lấn cảnh quan, gia tăng rác thải và ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng bảo tồn di sản, khiến du khách có một số trải nghiệm văn hóa chưa thật sự hài lòng.

Ba là, chất lượng nguồn nhân lực phục vụ quản trị di sản, quản lý điểm đến, ứng dụng công nghệ số và truyền thông văn hóa còn thiếu về số lượng, chưa đồng đều về trình độ. Năng lực thiết kế các sản phẩm - trải nghiệm văn hóa mới, như chương trình biểu diễn, trình diễn thực cảnh, lễ hội quy mô lớn còn hạn chế, chưa tạo được những “dấu ấn” đủ sức cạnh tranh ở tầm quốc gia và quốc tế.

Bốn là, quá trình chuyển đổi số trong bảo tồn, phát huy di sản mới ở giai đoạn khởi đầu; dữ liệu số phân tán, thiếu liên thông và chuẩn hóa. Tỉnh Ninh Bình chưa hình thành được nền tảng số vùng phục vụ cho nghiên cứu khoa học, giáo dục, quản trị di sản và phát triển du lịch thông minh, khiến khả năng khai thác, chia sẻ và quảng bá giá trị di sản còn hạn chế.

Năm là, vai trò chủ thể của cộng đồng tại một số địa bàn chưa được phát huy đầy đủ. Cơ chế phân chia lợi ích từ hoạt động du lịch - văn hóa chưa thực sự hấp dẫn đủ sức thu hút người dân và doanh nghiệp tích cực tham gia sâu vào chuỗi giá trị. Công tác giáo dục, bồi dưỡng tri thức văn hóa địa phương cho thanh thiếu niên chưa tạo được sự hứng khởi và gắn bó lâu dài với di sản bởi phương pháp, hình thức bồi dưỡng thiếu sáng tạo, chưa sinh động, chưa phù hợp với thế hệ trẻ trong thời kỳ công nghệ số.

Những vấn đề đặt ra và giải pháp trong thời kỳ mới

Bước vào giai đoạn phát triển mới, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa gắn với liên kết vùng ở tỉnh Ninh Bình không chỉ đứng trước cơ hội mở rộng không gian phát triển và khai thác tối ưu tiềm năng di sản mà còn đối diện với nhiều thách thức đòi hỏi tư duy quản trị hiện đại, cách tiếp cận tổng hợp và các giải pháp đồng bộ, sáng tạo.

Trước hết, áp lực gia tăng lượng khách và nhu cầu phát triển du lịch đặt ra yêu cầu cấp bách phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng doanh thu và “khả năng chịu tải” của di sản. Vấn đề là phải vừa bảo đảm tính nguyên vẹn, xác thực và giá trị nổi bật toàn cầu (OUV) của di sản, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, trong khi sức chứa và khả năng bảo tồn của không gian di sản có giới hạn.

Tiếp đó, sự phát triển bền vững đòi hỏi tỉnh Ninh Bình phải chuyển từ tư duy “khai thác tài nguyên” sang “kiến tạo giá trị” văn hóa, thông qua việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo. Đây không chỉ là giải pháp hạn chế tối đa tình trạng “thương mại hóa thô” di sản, mà còn nhằm nâng cao giá trị gia tăng, kéo dài vòng đời sản phẩm và dịch vụ văn hóa - du lịch, hình thành chuỗi giá trị bền vững có khả năng cạnh tranh cao.

Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế liên kết vùng có đủ nền tảng pháp lý, cơ chế tài chính, hạ tầng dữ liệu và nguồn nhân lực chuyên nghiệp, bảo đảm tính ràng buộc và độ tin cậy để các địa phương sẵn sàng tham gia. Cơ chế này phải có khả năng nhân rộng và thích ứng linh hoạt với nhiều mô hình quản trị di sản, phát triển sản phẩm văn hóa - du lịch liên vùng.

Tiếp theo là tổ chức không gian sự kiện, lễ hội văn hóa cần được quy hoạch và quản lý theo hướng chuyên nghiệp, an toàn, thân thiện với môi trường, gắn với ứng dụng công nghệ số trong điều hành. Cách tiếp cận này không chỉ giúp nâng cao chất lượng trải nghiệm của du khách, mà còn góp phần phòng ngừa hiệu quả các rủi ro về an toàn, tiếng ồn, rác thải, đồng thời bảo đảm nếp sống văn minh và tôn trọng các giá trị tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng đối với nhân dân.

Cuối cùng là, xây dựng bộ công cụ đo lường cụ thể để đánh giá và nâng cao đóng góp của văn hóa vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) cũng như an sinh xã hội của tỉnh Ninh Bình. Các chỉ số định lượng (KPIs) cần gắn kết chặt chẽ với chỉ số hài lòng của người dân, du khách và doanh nghiệp, làm cơ sở khách quan để đánh giá hiệu quả thực chất của các chương trình, dự án bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, qua đó bảo đảm định hướng phát triển bền vững.

Để nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa gắn với liên kết vùng, thời gian tới tỉnh Ninh Bình cần thực hiện đồng bộ một số nhóm giải pháp sau:  

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và cơ chế điều phối liên kết vùng về văn hóa - di sản; xây dựng, ký kết và thể chế hóa Thỏa thuận khung giữa Ninh Bình với các tỉnh, thành phố trong vùng; xác định rõ cơ chế điều phối và nhiệm vụ điều hành, chia sẻ dữ liệu, giám sát môi trường. Mục tiêu văn hóa cần được lồng ghép vào quy hoạch vùng, định danh hành lang di sản, điểm nhạy cảm môi trường - văn hóa, không gian kinh tế đêm; đặt ngưỡng sức chứa và quy định đánh giá tác động văn hóa - môi trường; đồng thời ban hành cơ chế tài chính, thành lập Quỹ phát triển văn hóa - di sản, khuyến khích PPP và ưu đãi doanh nghiệp sáng tạo.

Thứ hai, quy hoạch không gian di sản - du lịch theo hướng xanh, thông minh, thích ứng khí hậu; thiết kế bản đồ sức chứa, tổ chức luồng di chuyển hợp lý; phát triển hạ tầng xanh, tiện ích văn minh và giám sát môi trường thời gian thực; ban hành Quy chế sự kiện xanh cho lễ hội, festival.

Thứ ba, đẩy mạnh chuyển đổi số với cơ sở dữ liệu di sản - văn hóa dùng chung; số hóa tư liệu, hiện vật, không gian 3D/AR/VR; vận hành nền tảng liên thông điểm đến, cung cấp vé điện tử liên vùng, định vị - điều hướng, cảnh báo sức chứa; phát triển sản phẩm số, như tour ảo, bảo tàng số, triển lãm trực tuyến, kho nội dung mở cho giáo dục di sản.

Thứ tư, phát triển cụm sản phẩm văn hóa - du lịch liên vùng, tiêu biểu là “Hành trình di sản Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ” kết hợp di sản cốt lõi, trải nghiệm sáng tạo và dịch vụ bổ trợ; xây dựng chuỗi lễ hội, festival theo mùa, chuẩn hóa tiêu chí dịch vụ và triển khai “Mỗi xã/phường một trải nghiệm văn hóa” gắn OCOP. Trên nền tảng di sản, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo; khuyến khích doanh nghiệp khai thác chất liệu di sản; xây dựng Vườn ươm Sáng tạo di sản, hoàn thiện cơ chế bản quyền và quỹ tác quyền cộng đồng.

Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với “bộ ba năng lực”: quản trị di sản theo chuẩn UNESCO, thiết kế sản phẩm - trải nghiệm văn hóa, chuyển đổi số - truyền thông số; trao quyền cho cộng đồng thông qua các mô hình,như văn hóa du lịch cơ sở, quỹ cộng đồng bảo tồn - khởi nghiệp, tôn vinh nghệ nhân, bảo trợ “trường học di sản” trong nhà trường.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế, ký kết với UNESCO và các tổ chức chuyên ngành; tham gia mạng lưới công viên di sản - địa chất toàn cầu; thử nghiệm mô hình đồng quản trị và đánh giá đồng đẳng; chủ trì diễn đàn quốc tế về văn hóa - di sản - du lịch bền vững.

Thứ bảy, xây dựng chiến lược truyền thông văn hóa - di sản, định vị thương hiệu “Ninh Bình - Không gian di sản mở”, phát triển trung tâm truyền thông vùng, ứng dụng cảm biến dư luận; tổ chức giải thưởng sáng tạo truyền thông, khuyến khích giám sát xã hội đối với bảo tồn, phát huy di sản.

Thứ tám, xây dựng, thực hiện   bộ chỉ số văn hóa - di sản liên vùng; áp dụng đánh giá tác động văn hóa bắt buộc; công bố báo cáo tình trạng di sản hằng năm; tăng cường giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, khuyến khích phản biện chính sách từ các tổ chức độc lập./.

----------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 146
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, Hà Nội, 2021, tr. 202
(3) Xem: Nguyễn Phú Trọng, “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, Báo Nhân Dân điện tử ngày 31-1-2024, https://nhandan.vn/special/Tong-Bi-thu-Nguyen-Phu-Trong-tu-hao-tin-tuong-duoi-la-co-ve-vang-cua-Dang/index.html
(4) Xem: Kết luận số 156-KL/TW, ngày 21-5-2025, của Bộ Chính trị: “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và Kết luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW”, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Ket-luan-156-KL-TW-2025-tiep-tuc-thuc-hien-Nghi-quyet-33-NQ-TW-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-658459.aspx
(5) Xem: Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23-11-2022, của Bộ Chính trị “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-30-nq-tw-ve-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dong-bang-song-hong-119221129151315463.htm
(6) OUV là viết tắt của Outstanding Universal Value, nghĩa là Giá trị nổi bật toàn cầu. Đây là khái niệm do UNESCO sử dụng để chỉ những giá trị đặc biệt của một di sản (thiên nhiên hoặc văn hóa) đủ tiêu chuẩn được ghi vào Danh mục Di sản thế giới.