TCCS - Xác định chuyển đổi số là nền tảng để tạo đột phá trong cải cách hành chính, tỉnh An Giang thời gian qua đã chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp ứng dụng công nghệ số vào hoạt động quản lý và phục vụ người dân.

Một góc phường Rạch Giá, tỉnh An Giang_Ảnh: Tư liệu

Chuyển đổi số thúc đẩy cải cách hành chính                    

Đáp ứng yêu cầu của phát triển và nguyện vọng của nhân dân, hướng tới một kỷ nguyên phát triển giàu mạnh của đất nước, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 202/2025/QH15, ngày 12-6-2025, về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh. Đây không chỉ là văn bản mang tính hành chính, mà là quyết sách mang tầm chiến lược, mở đường cho việc kiến tạo mô hình quản trị hiện đại, linh hoạt và hiệu quả hơn. Việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và sáp nhập đơn vị hành chính là bước đi tất yếu, có ý nghĩa sâu sắc về chính trị, tổ chức và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy quản lý nhà nước.

Tỉnh An Giang được thành lập trên cơ sở hợp nhất toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của hai tỉnh Kiên Giang (cũ) và An Giang (cũ), một đơn vị hành chính mới với diện tích 9.888km², dân số khoảng 5 triệu người và 102 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 85 xã, 14 phường và 3 đặc khu). Việc sáp nhập này mở ra không gian phát triển rộng lớn và nguồn lực dồi dào hơn, góp phần định hình nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển mới. Ngay sau khi kiện toàn bộ máy, tỉnh đã tập trung triển khai đồng bộ công cuộc cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính và chuyển đổi số, hướng tới xây dựng bộ máy tinh gọn, hiện đại và hiệu lực cao. Theo đó, Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh An Giang cùng 102 Trung tâm cấp xã, phường, đặc khu được tổ chức theo Nghị định số 118/2025/NĐ-CP, ngày 9-6-2025, của Chính phủ, về thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Nhờ đó, công tác tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp từng bước được chuyên nghiệp hóa, minh bạch, nâng cao chất lượng phục vụ và mức độ hài lòng đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Nhằm bảo đảm việc giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) kịp thời, minh bạch, công bằng và đúng pháp luật, tỉnh đã ban hành 59 quyết định công bố danh mục với tổng số 1.119 thủ tục hành chính, gồm 863 thủ tục cấp tỉnh và 256 thủ tục cấp xã. Tổng số thủ tục hành chính được công khai toàn tỉnh là 2.175 thủ tục, trong đó cấp tỉnh 1.854 thủ tục và cấp xã 400 thủ tục. Trung tâm Phục vụ hành chính công đã niêm yết công khai 1.808 thủ tục hành chính và triển khai cơ chế giải quyết không phụ thuộc vào địa giới hành chính; cấp xã có thể tiếp nhận và chuyển hồ sơ qua dịch vụ bưu chính đối với toàn bộ 1.808 thủ tục. Tỉnh cung cấp 658 dịch vụ công trực tuyến toàn trình và 993 dịch vụ công trực tuyến một phần; đồng thời đẩy mạnh số hóa hồ sơ, số hóa kết quả giải quyết thủ tục hành chính và tái sử dụng dữ liệu nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Để xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, tỉnh An Giang tập trung xây dựng hạ tầng số đồng bộ, hiện đại, trở thành nền tảng vững chắc cho phát triển chính quyền điện tử, kinh tế số và xã hội số. Toàn bộ 100% trung tâm xã, phường, đặc khu, khóm, ấp, khu phố đều được kết nối Internet tốc độ cao, đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ và tìm kiếm thông tin của người dân. Tất cả khu công nghiệp, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện được trang bị kết nối internet để phục vụ công tác quản lý, điều hành. 100% số cơ quan nhà nước trong tỉnh được trang bị mạng cục bộ (LAN) kết nối internet và mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Hạ tầng kỹ thuật tại Trung tâm dữ liệu tỉnh và mạng nội bộ tại các xã, phường, đặc khu đã được nâng cấp, mở rộng, bảo đảm hoạt động thông suốt, ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nội bộ các cơ quan nhà nước được triển khai đồng bộ, trở thành công cụ thiết yếu thúc đẩy chính quyền điện tử, chính quyền số và nâng cao hiệu quả quản lý. Hệ thống quản lý văn bản và điều hành tỉnh được hoàn thiện theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; toàn bộ cán bộ, công chức, viên chức được cấp tài khoản văn phòng điện tử và hộp thư công vụ, với tổng số 20.426 tài khoản. Tỷ lệ văn bản điện tử trao đổi qua hệ thống đạt 100%. Hội nghị truyền hình trực tuyến đã kết nối từ Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh đến 102/102 điểm cầu cấp xã và từ Văn phòng Tỉnh ủy đến 102/102 đảng ủy cấp xã. Hệ thống thông tin báo cáo của tỉnh kết nối đồng bộ với Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia, với 4.000 tài khoản người dùng, cập nhật kịp thời thông tin chỉ đạo, điều hành. 100% số cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức được cấp chữ ký số chuyên dùng công vụ, bảo đảm xử lý hồ sơ TTHC và ký số đúng quy định.

Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của tỉnh được tích hợp với Cổng dịch vụ công quốc gia, hình thành điểm “một cửa số” tập trung, duy nhất. Toàn tỉnh cung cấp 1.946 TTHC áp dụng dịch vụ công trực tuyến, trong đó có 804 dịch vụ công trực tuyến toàn trình và 1.142 dịch vụ công trực tuyến một phần, phục vụ người dân và doanh nghiệp nộp hồ sơ trực tuyến. Đến ngày 15-8-2025, tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến đạt 71,1%, trong đó tỷ lệ hồ sơ giải quyết trước hạn và đúng hạn đạt 92,8%. Nhằm khuyến khích người dân, doanh nghiệp chủ động, tự giác sử dụng dịch vụ công trực tuyến, Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang đã ban hành Nghị quyết số 14/2025/NQ-HĐND, ngày 27-6-2025, quy định mức thu 0 đồng phí khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến trên địa bàn tỉnh.

Mục tiêu, định hướng chuyển đổi số

Tỉnh tiếp tục triển khai các nền tảng số quốc gia, phục vụ chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Tỷ lệ doanh nghiệp nộp thuế điện tử và sử dụng hóa đơn điện tử đạt 100%. Theo đó, 100% cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện thanh toán lương, các khoản phí thông qua thẻ ngân hàng. Tỉnh hỗ trợ hơn 10.200 lượt người dân mở tài khoản, cài ứng dụng thanh toán số, góp phần phổ cập kỹ năng số, thúc đẩy thanh toán không tiền mặt, phát triển xã hội số tại khu vực nông thôn. Mô hình triển khai đạt hiệu quả cao, có tính lan tỏa, phù hợp để nhân rộng trên toàn tỉnh.

Phong trào “Bình dân học vụ số” được triển khai mạnh mẽ, nhằm phổ cập kiến thức, kỹ năng số cho người dân, góp phần phát triển xã hội số bền vững. Tỉnh An Giang đã phát động phong trào, ra mắt ứng dụng “SmartAnGiang” phục vụ học tập suốt đời và xây dựng kế hoạch phát triển học liệu số. Các hoạt động truyền thông, tuyên truyền được triển khai đồng bộ với sự tham gia của hơn 1.000 Tổ công nghệ số cộng đồng, thu hút gần 8.000 thành viên. Tỉnh đã tổ chức tập huấn, phổ cập kỹ năng số cho học sinh, sinh viên, công chức, người lao động và nhóm yếu thế; triển khai các mô hình học tập trực tuyến, hướng dẫn người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, VNeID, thanh toán không tiền mặt và bảo vệ dữ liệu cá nhân. Tỷ lệ người dân trưởng thành có tri thức cơ bản về chuyển đổi số đạt trên 71%, trong khi cán bộ, công chức, viên chức đạt 100% hiểu biết nền tảng số.

Việc đổi mới công tác cải cách hành chính, triển khai chính quyền điện tử và chuyển đổi số đã mang lại những kết quả tích cực, tạo môi trường pháp lý và thể chế thuận lợi; đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao minh bạch trong tiếp nhận và giải quyết hồ sơ; sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phù hợp xu thế phát triển của thế giới. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả, tính chuyên nghiệp và hiện đại của quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng tỉnh An Giang trở thành địa phương tiên phong về chuyển đổi số, chính quyền số và phát triển bền vững.

Nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp

Để tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao nâng cao hiệu lực, hiệu quả tính chuyên nghiệp, hiện đại của quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh An Giang, cần chú trọng triển khai các nhiệm vụ cụ thể sau:

Thứ nhất, xây dựng, triển khai bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công việc của cán bộ, công chức theo thang điểm KPI. Triển khai thực hiện các quy định Trung ương về phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW.

Thứ hai, triển khai thực hiện chính sách đặc thù thu hút, tuyển dụng, đãi ngộ và trọng dụng nhân lực có trình độ cao về chuyển đổi số làm việc tại các cơ quan nhà nước, bảo đảm đủ về số lượng, chất lượng cho các ngành, các cấp trong tỉnh.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện sắp xếp tổ chức, bộ máy của tỉnh tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW. Nâng cao các chỉ số: Chỉ số cải cách hành chính (Par Index); Chỉ số hài lòng về sự phục vụ của cơ quan hành chính (SIPAS); Chỉ số hiệu quả quản trị và Hành chính công (PAPI); Chỉ số đánh giá chuyển đổi số (DTI); Chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) và Chỉ số xanh (PGI). Đơn giản hóa và hiện đại hóa quy trình TTHC để tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tham gia sản xuất, đầu tư, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Thứ tư, ứng dụng AI trong quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công: sử dụng AI để tự động hóa các quy trình TTHC, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và giảm thiểu sai sót; ứng dụng Chatbot, trợ lý ảo để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong việc tra cứu thông tin, giải đáp thắc mắc và tiếp nhận phản ánh; theo dõi, giám sát quá trình thực hiện công vụ, bảo đảm tính minh bạch, công bằng và trách nhiệm giải trình, từ đó phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi tiêu cực, tham nhũng; phân tích, dự báo tình hình, hỗ trợ lãnh đạo đưa ra các quyết định chính xác, kịp thời và dự đoán, cảnh báo sớm các vấn đề có thể phát sinh để có giải pháp phù hợp, hiệu quả.

Thứ năm, phát triển chính quyền điện tử, công dân số: Quan tâm đầu tư trang thiết bị hiện đại, hạ tầng công nghệ thông tin và phần mềm ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số. Ứng dụng AI để xây dựng các nền tảng, ứng dụng, dịch vụ số phục vụ người dân và doanh nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến.

Thứ sáu, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực liên quan đến kiến thức, kỹ năng về AI cho cán bộ, công chức. Xây dựng đội ngũ chuyên gia về AI trên các lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Rà soát, sửa đổi, ban hành các quy định về thi đua, khen thưởng theo hướng mở rộng các hình thức, kịp thời tôn vinh, biểu dương, khen thưởng xứng đáng các nhà khoa học, nhà sáng chế, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có thành tích trong khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số./.