TCCS - Sau sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấu trúc của các vùng kinh tế có thay đổi đáng kể về thành phần, phạm vi và động lực phát triển. Cùng với việc chính thức bố cục lại phạm vi vùng kinh tế, việc xác định phương hướng chiến lược phát triển của vùng trong giai đoạn sắp tới có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy tối đa ưu thế, nguồn lực và không gian phát triển của từng vùng, tạo đột phá cho phát triển kinh tế của cả nước.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tiếp xúc cử tri trước Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV tại thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang (cũ) _Ảnh: TTXVN

1- Tổ chức không gian phát triển kinh tế theo vùng đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là một định hướng chiến lược, nhằm khai thác tốt hơn lợi thế tương đối giữa các địa phương và phát huy hiệu quả tổng thể quốc gia. Nhằm phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế của vùng trong phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Chính trị các khóa trước đã ban hành các nghị quyết chuyên đề về phát triển vùng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Khai thác tốt hơn và phát huy tốt nhất các lợi thế của mỗi vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa kinh tế - chính trị, nguồn nhân lực và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới... Tập trung xây dựng quy hoạch vùng mang tính chất đột phá theo hướng tích hợp, đa ngành, hình thành chuỗi giá trị và triển khai thực hiện hiệu quả, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng”(1). Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, năm 2022, Bộ Chính trị đã ban hành 6 Nghị quyết(2) về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh của 6 vùng kinh tế trọng trên cả nước điểm, bao gồm: 1- Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ; 2- Vùng đồng bằng sông Cửu Long; 3- Vùng Tây Nguyên; 4- Vùng Đông Nam Bộ; 5- Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ; 6- Vùng đồng bằng sông Hồng.

Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị ban hành các nghị quyết về phát triển vùng nhằm tạo đột phá trong phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng kinh tế trên cả nước trong giai đoạn mới. Các nghị quyết được ban hành có tầm nhìn bao quát và mục tiêu phát triển mới phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm tính thống nhất với quy hoạch quốc gia, quy hoạch địa phương; phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia, thích ứng với biến đổi khí hậu... thể hiện ý chí, khát vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao đến năm 2045.

Sau quá trình thực hiện các nghị quyết của Trung ương, 6 vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam đã phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế, trở thành các cực tăng trưởng kinh tế quan trọng của cả nước. Hai vùng kinh tế trọng điểm (Vùng đồng bằng sông Hồng và Vùng Đông Nam Bộ) tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt, tạo động lực quan trọng, đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP của đất nước. Các vùng kinh tế khác từng bước định hình được lợi thế riêng với sự đầu tư vào hạ tầng giao thông, như đường bộ cao tốc, sân bay, cảng biển... tạo nền tảng thúc đẩy liên kết vùng và phát triển bền vững. Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn chưa tương xưng với tiềm năng, lợi thế; tư duy về liên kết vùng của địa phương chưa sâu sắc; còn sự chênh lệch về tốc độ phát triển, chất lượng tăng trưởng và khả năng thích ứng giữa các địa phương trong vùng; thể chế phân cấp, phân quyền trong liên kết vùng chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện, đặt ra yêu cầu cấp thiết về chính sách liên kết vùng hiệu quả hơn trong thời gian tới. 

Trước yêu cầu về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Nghị quyết số 60-NQ/TW, ngày 12-4-2025, của Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII, đã được ban hành, tập trung vào việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và đơn vị hành chính các cấp, đặc biệt nhấn mạnh việc sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp xã, chấm dứt hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện từ ngày 1-7-2025. Đây là một bước đi mang tính lịch sử, đột phá, tạo tiền đề quan trọng cho cơ cấu lại không gian vùng kinh tế - xã hội của đất nước. Việc giảm số lượng đơn vị hành chính từ 63 tỉnh, thành phố xuống còn 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm thay đổi sâu sắc cấu trúc vùng kinh tế. Việc cấu trúc lại địa giới hành chính giúp vùng có diện tích tự nhiên rộng hơn, tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức lại không gian phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời giúp tinh gọn bộ máy hành chính ở địa phương các cấp.

Trên cơ sở 6 vùng kinh tế - xã hội hiện nay, Bộ Tài chính đã đề xuất Chính phủ phương án phân vùng phù hợp với bối cảnh mới. Theo đó, quy mô dân số, diện tích, số địa phương cấp tỉnh trong vùng có sự điều chỉnh (một số địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng sáp nhập với địa phương vùng Trung du và miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên với vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long) nhằm tạo sự bổ trợ lẫn nhau giữa các địa phương để khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao của cả nước trong giai đoạn tới.

Sự điều chỉnh các vùng kinh tế - xã hội phù hợp với việc sắp xếp lại các tỉnh, thành phố nhằm khai thác hiệu quả hơn tiềm năng, lợi thế so sánh, tạo lợi thế cạnh tranh của từng vùng, từng địa phương trong vùng. Việc cấu trúc lại vùng kinh tế - xã hội theo hướng mở rộng không gian phát triển vùng góp phần giảm sự chồng chéo trong quy hoạch, thúc đẩy phát triển lợi thế kinh tế vùng theo hướng bền vững. Theo dữ liệu thống kê, đến hết năm 2024 cho thấy, sau khi sắp xếp lại đơn vị hành chính,  các vùng vẫn bảo đảm tính ổn định trong cơ cấu tổng thể quốc gia, vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng tiếp tục là hai vùng kinh tế dẫn đầu, với tỷ trọng đóng góp xấp xỉ 60% vào GRDP toàn quốc. Vùng Bắc Trung Bộ và Trung du miền núi phía Bắc là 2 vùng có tỷ trọng đóng góp thấp hơn, lần lượt là 7,29% và 8,02%. Sự dịch chuyển vị thế đóng góp GRDP đáng chú ý nhất là vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên vươn lên đứng thứ 3 cả nước, chiếm 12,9% (trước sáp nhập Tây Nguyên chỉ chiếm 3,81%). Sự tăng trưởng này cho thấy hiệu ứng tích cực từ việc kết nối tiềm năng nội địa (Tây Nguyên) với lợi thế kinh tế biển và đô thị hóa cao (Nam Trung Bộ). Việc hình thành hành lang kinh tế Đông - Tây và Bắc - Nam trên địa bàn vùng cũng góp phần thúc đẩy nỗ lực phát triển đồng đều hơn. Một số vùng có tỷ trọng GRDP thấp, như Bắc Trung Bộ  và Trung du miền núi phía Bắc vẫn đối mặt với nhiều thách thức về năng suất lao động, hạ tầng kinh tế và khả năng thu hút đầu tư.

Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu tại cảng Cát Lái (Thành phố Hồ Chí Minh) _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

2- Việc kết hợp đơn vị hành chính có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, hạ tầng kỹ thuật đến năng lực tài chính chênh lệch, dễ tạo ra tình trạng phát triển không đồng đều trong nội bộ vùng mới. Địa phương có nguồn thu ngân sách thấp, chất lượng dịch vụ công hạn chế, hoặc thiếu lực lượng lao động kỹ năng cao có thể trở thành “điểm nghẽn” trong nỗ lực phát triển chung. Chính sách phát triển hạ tầng hoặc lực lượng lao động chất lượng cao có thể bị chia sẻ làm giảm tính tập trung, phân tán nguồn lực. Về lâu dài, việc này không chỉ tác động đến tốc độ phát triển của vùng, mà còn ảnh hưởng đến vai trò đầu tàu của địa phương vốn là động lực tăng trưởng chính. Do đó, chính sách phân vùng sau khi sắp xếp lại đơn vị hành chính cần gắn liền với chiến lược ưu tiên đầu tư công trung hạn, cơ chế điều tiết hợp lý về ngân sách, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định của pháp luật, cũng như tăng cường kết nối nội vùng, từ đó cải thiện mức đóng góp vào nền kinh tế quốc dân một cách bền vững.

Về phương hướng phát triển vùng sau khi sắp xếp lại đơn vị hành chính, cần nghiên cứu một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, điều chỉnh quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng và địa phương, không chỉ đơn thuần là vấn đề điều chỉnh tổ chức bộ máy, địa giới hành chính, mà còn là vấn đề điều chỉnh không gian kinh tế, điều chỉnh sự phân công, phân cấp, phân bổ nguồn lực cho phát triển theo hướng đẩy mạnh liên kết, khơi thông nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.

Quy hoạch vùng cần xác định rõ định hướng phát triển các ngành có lợi thế, hiệu quả cao, tính lan tỏa rộng; đồng thời, bảo đảm tính tương hỗ, liên kết phát triển giữa các tiểu vùng, nội vùng và liên vùng, cụ thể:

1- Xác định các tiểu vùng, xây dựng phương án phát triển, sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực cho hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường cho từng tiểu vùng dựa trên lợi thế so sánh của từng khu vực và địa phương trong vùng. Trong đó, tập trung xây dựng vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ giữ vai trò trung tâm đổi mới sáng tạo, sản xuất công nghệ cao, dịch vụ tài chính, logistics, thương mại số. Định hướng phát triển chuỗi sản xuất, cụm liên kết ngành, tập trung vào sản phẩm và dịch vụ giá trị gia tăng cao, đẩy mạnh xuất khẩu chất xám. Đầu tư mạnh vào vành đai logistics đa phương thức, trung tâm trung chuyển, khu công nghệ cao, trung tâm dữ liệu, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển đô thị thông minh, giảm phát thải ngành truyền thống, chuẩn bị nguồn nhân lực cho lĩnh vực mới, như trí tuệ nhân tạo (AI), sản xuất thông minh…

2- Xây dựng các cực tăng trưởng Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh phát triển thành trung tâm tài chính, đổi mới sáng tạo quốc gia, dẫn dắt hệ sinh thái khởi nghiệp, trung tâm logistics, dịch vụ số và công nghiệp công nghệ cao. Đẩy mạnh xây dựng đô thị thông minh, trung tâm dữ liệu, mạng lưới giao thông hiện đại, đào tạo nhân lực trình độ cao. Các thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ cần tập trung xây dựng cảng biển trung chuyển quốc tế, trung tâm logistics, cụm công nghiệp công nghệ cao, trung tâm nghiên cứu, đào tạo, dịch vụ chất lượng quốc tế, liên kết chặt chẽ với các tỉnh, thành phố tiếp giáp để lan tỏa động lực phát triển toàn vùng.

Lựa chọn ngành ưu tiên dựa trên lợi thế so sánh của từng vùng với quốc gia, quốc tế trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh và sự lan tỏa lớn, góp phần tăng trưởng nhanh và bền vững; đồng thời, ổn định sinh kế, xóa đói, giảm nghèo bền vững.

3- Xây dựng phương án kết nối hạ tầng, nội vùng, liên vùng gắn với không gian phát triển các ngành có lợi thế: i- Tạo liên kết hoạt động tổng thể không gian vùng và tiểu vùng; ii- Tạo liên kết không gian hoạt động của các ngành trong vùng (sản xuất, dịch vụ, văn hóa xã hội, môi trường sinh thái); iii- Xây dựng phương án liên kết hệ thống đô thị cấp vùng, liên kết đô thị và nông thôn, liên kết trung tâm kinh tế, khu công nghiệp và vùng sản xuất tập trung trên phạm vi vùng; iv- Phương án khai thác, sử dụng tối đa kết cấu hạ tầng hiện có nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của từng tiểu vùng, từng địa phương; gắn với việc hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại tạo động lực phát triển, bảo đảm an toàn, an ninh hạ tầng thiết yếu (hạ tầng, giao thông, năng lượng, hạ tầng số), thúc đẩy hoàn thành chính phủ số, kinh tế số, xã hội số làm động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của vùng; v- Bảo đảm sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên gắn với cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu của vùng; triển khai đồng bộ giải pháp nhằm bảo vệ môi trường, bảo tồn, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên và đa dạng sinh học của từng tiểu vùng, từng địa phương trong vùng.

4- Định hướng phát triển ngành, lĩnh vực có lợi thế, khu vực động lực; chính sách vượt trội nhằm thúc đẩy phát triển tiểu vùng có lợi thế, khu vực động lực; bảo đảm thể hiện tính đặc thù của từng vùng, lợi thế so sánh của vùng đối với vùng khác trong cả nước. Nghiên cứu hình thành cực tăng trưởng mới, trung tâm tăng trưởng để dẫn dắt vùng, kết nối các địa phương và đóng góp cho quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng quốc gia. Bảo đảm phát huy nội lực của vùng, đồng thời thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực quốc tế. Đa dạng hóa nguồn lực để bảo đảm chất lượng môi trường tự nhiên và ứng phó với thiên tai trong vùng trên cơ sở công bằng, hiệu lực và hiệu quả.

5- Định hướng phát triển và đề xuất chính sách xã hội đối với khu vực còn khó khăn nhằm tạo sinh kế và ổn định đời sống cho nhân dân giữa các tiểu vùng, giữa các địa phương trong vùng.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế điều phối vùng theo hướng trao quyền thực chất hơn cho trung tâm vùng. Tập trung đẩy mạnh hoạt động của hội đồng điều phối vùng để điều phối hoạt động liên kết vùng, giải quyết vấn đề chung của vùng nhằm tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt phát triển của vùng, như phát triển giao thông, kết nối, quy hoạch, cơ chế, chính sách đặc thù phát triển vùng, giải pháp điều phối trong các lĩnh vực thương mại, đô thị, logistics, phát triển nguồn nhân lực... để tận dụng, tối đa lợi thế cạnh tranh của vùng, phát huy tối đa sự hợp tác giữa các địa phương trong vùng.

Nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển vùng, trao quyền tự chủ mạnh cho địa phương trong hoạch định tài chính, đất đai, quy hoạch, lựa chọn nhà đầu tư và phát triển hạ tầng. Đẩy mạnh phân cấp, thí điểm mô hình quản trị vùng linh hoạt, điều phối liên kết, định hướng phát triển dự án trọng điểm liên tỉnh, tạo sự phát triển đồng bộ thay vì cạnh tranh phân tán.

Thứ ba, áp dụng cơ chế tài chính linh hoạt cho các tỉnh, thành phố sau sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh  để tạo điều kiện cân bằng nội vùng. Sau khi sắp xếp lại đơn vị hành chính, sự chênh lệch về năng lực tài chính, hạ tầng, chất lượng dịch vụ công và thu hút đầu tư có thể hiện hữu trong cùng một đơn vị hành chính. Do đó, nguồn lực tài chính cần được thiết kế theo hướng phân bổ linh hoạt, bảo đảm sự vận hành hiệu quả cho địa phương mới sáp nhập có lĩnh vực gặp khó khăn. Song song, cần có gói tài chính trung hạn ưu tiên cho địa phương trong giai đoạn chuyển tiếp để đầu tư vào hạ tầng thiết yếu, cải thiện chỉ số quản trị địa phương và đẩy nhanh khả năng hội nhập vào cơ chế điều hành vùng mới.

Thứ tư, đầu tư mạnh vào hạ tầng kết nối vùng là một giải pháp trọng yếu để tối ưu hóa hiệu ứng lan tỏa và kích hoạt động lực tăng trưởng nội tại. Việc hoàn thiện mạng lưới cao tốc liên vùng, tuyến đường sắt kết nối trung tâm kinh tế với cảng biển, cũng như hạ tầng logistics liên tỉnh sẽ góp phần giảm chi phí vận chuyển, tăng cường tính kết nối chuỗi giá trị và thu hút dòng vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Tập trung đầu tư nâng cấp đồng bộ hạ tầng giao thông, phát triển hành lang kinh tế Bắc - Nam, Đông - Tây, cảng biển trung chuyển quốc tế, trung tâm logistics vùng và vành đai đô thị lớn. Đẩy mạnh xây dựng hạ tầng số, trung tâm dữ liệu lớn, phổ cập kết nối internet tốc độ cao, phát triển nền tảng chính quyền số, giao dịch số và trung tâm đổi mới sáng tạo cấp vùng. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế gia tăng, hạ tầng kỹ thuật hiện đại và đồng bộ sẽ là lợi thế cạnh tranh chiến lược cho các vùng kinh tế mới hình thành sau sắp xếp lại đơn vị hành chính.

Thứ năm, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực vùng, trong đó tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao gắn với nhu cầu đặc thù của từng ngành, nghề, từng địa phương. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, mở rộng mạng lưới trường đại học, trung tâm đào tạo nghề liên kết với doanh nghiệp, chú trọng đào tạo kỹ năng số, quản lý thông minh, sản xuất xanh, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế mới. Tạo điều kiện thu hút nhân tài, chuyên gia quốc tế và thực hiện chính sách đào tạo lại lực lượng lao động hiện hữu. Tiếp tục nghiên cứu chính sách thu hút và giữ chân người lao động có trình độ, đặc biệt là trong lĩnh vực then chốt, như y tế, giáo dục, công nghệ thông tin và kỹ thuật công nghiệp tại vùng còn thiếu hụt nhân lực chất lượng cao.

Chủ trương sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 60- NQ/TW không chỉ là giải pháp tinh gọn bộ máy quản lý nhà nước, mà còn mở ra cơ hội quan trọng để cấu trúc lại không gian phát triển vùng, kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn quốc. Việc thu gọn số lượng tỉnh, thành phố giúp tăng cường tính liên kết vùng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân bổ nguồn lực, nâng cao hiệu quả đầu tư công, đặc biệt là thúc đẩy cực tăng trưởng có khả năng dẫn dắt, lan tỏa. Để công cuộc sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị  thực sự trở thành động lực cho phát triển vùng, trong dài hạn, cần có chiến lược quy hoạch vùng mang tính tích hợp, dựa trên cơ sở dữ liệu liên thông, và gắn kết với tầm nhìn phát triển quốc gia. Bên cạnh đó, việc ban hành cơ chế điều phối vùng linh hoạt, đi kèm với chính sách tài khóa và nhân lực phù hợp cho từng vùng sẽ là chìa khóa then chốt để phát triển vùng. Chỉ khi bảo đảm được tính đồng bộ giữa quy hoạch, thể chế và nguồn lực, vùng kinh tế mới có thể phát huy được lợi thế tổng hợp, phát huy vai trò của vùng, gắn kết với tầm nhìn phát triển quốc gia, góp phần vào tăng trưởng bền vững./.

--------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 251

(2) Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 10-2-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 2-4-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 7-10-2022, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam bộ”; Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 6-10-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 3-11-2022, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế - xã  hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23-12-2022, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”