Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 1)
TCCS - Là học thuyết mở, không biệt phái, giáo điều, chủ nghĩa Mác - Lê-nin được những người mác-xít chân chính không ngừng tiếp thêm sinh lực mới và bảo vệ sự trong sáng nhờ thâu thái trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu về tư tưởng và khoa học của thời đại, đồng thời tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác trước những trào lưu tư tưởng phi mác-xít kiểu mới, âm mưu gây phân rã, đa nguyên tư tưởng, làm suy giảm vai trò chủ đạo của nền tảng tư tưởng, cũng như sự lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng.
Chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phi mác-xít kiểu mới là những tư tưởng chính trị phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác bằng nhiều hình thức khác nhau, hoặc trực tiếp bài bác công khai; hoặc “khoác áo mác-xít” để tinh vi chống phá; hoặc thừa nhận một phần, nhưng đòi tách nhánh, sửa đổi, chiết ghép vô nguyên tắc, hỗn tạp với nhiều học thuyết khác, làm biến dạng, sai lệch bản chất của chủ nghĩa Mác chính thống... Đây là những chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng mới ra đời hoặc là biến thể mới của những hình thức chống phá truyền thống trước đây, với đủ sắc thái của chủ nghĩa cải lương, cơ hội, xét lại..., cùng những luận điệu chống phá mới ngày càng tinh vi, khó nhận biết.
Với tư cách là một học thuyết khoa học, cách mạng của thời đại, chủ nghĩa Mác “hoàn bị và chặt chẽ”(1), có sức sống mãnh liệt, tự mang trong mình tính phản biện mạnh mẽ đối với các khuynh hướng tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, phản động. “Học thuyết của Mác... không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”(2). Đặc biệt, với học thuyết của C. Mác, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, các quy luật phát triển của xã hội loài người được phát hiện. Trong đó, C. Mác đã chỉ ra quy luật cách mạng xã hội nói chung và cách mạng vô sản nói riêng, sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của cách mạng vô sản, cùng sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. C. Mác cũng luận chứng toàn diện về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong việc lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới cộng sản chủ nghĩa, qua đó giúp giai cấp công nhân và chính đảng của mình củng cố niềm tin, sự kiên định lý tưởng cộng sản, đồng thời cũng vũ trang cho họ nền tảng tư tưởng và lý luận cách mạng, khoa học để đấu tranh thắng lợi với tư tưởng tư sản và các loại tư tưởng thù địch, phản động khác dưới nhiều hình thức.
Là người trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin vận dụng sáng tạo học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực; đồng thời là tấm gương mẫu mực về bảo vệ chủ nghĩa Mác trước sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Để bảo vệ tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác, V.I. Lê-nin đấu tranh không khoan nhượng chống các trào lưu phi mác-xít trong nội bộ nước Nga và quốc tế, từ chủ nghĩa dân túy tự do phản động phủ nhận vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, phái “những người mác-xít hợp pháp” muốn “khuôn” chủ nghĩa Mác hợp với quyền lợi của giai cấp tư sản, đến chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội quốc tế âm mưu phủ nhận chủ nghĩa Mác trên quy mô toàn cầu... Tại Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội VIII Đảng Cộng sản Nga (năm 1919), trước những ý kiến nhân danh lòng yêu nước để đả kích “bước lùi” trong việc ký Hòa ước Brest-Litovsk (năm 1918), V.I. Lê-nin đã trực tiếp nhắc tên và kịch liệt phê phán những “tư tưởng phi mác-xít” hết sức nguy hiểm: “Người nào lên án bước lùi đó tưởng là theo quan điểm cách mạng thì thực sự đã có một quan điểm căn bản sai lầm và phi mác-xít”(3). Việc vạch trần những quan điểm phi mác-xít ngụy trang dưới vỏ bọc “quan điểm cách mạng” đó có vai trò quan trọng trong giữ vững trận địa tư tưởng để bảo vệ Đảng Cộng sản Nga và nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ đầu tiên trên thế giới mới ra đời khi đó... V.I. Lê-nin đã không chỉ bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác, mà còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới.
V.I. Lê-nin cũng chỉ rõ: “...lịch sử tư tưởng chính là lịch sử của quá trình thay thế của tư tưởng, do đó là lịch sử đấu tranh tư tưởng”(4), đồng thời cảnh báo rằng: “Trong toàn thế giới văn minh, học thuyết của Mác đã gây ra sự cừu địch mạnh nhất và lòng căm thù trong toàn thế giới khoa học tư sản...”(5). Do đó, tư tưởng lý luận của chủ nghĩa xã hội ngay từ khi ra đời tất yếu đã phải đương đầu với sự phê phán, xuyên tạc, bài bác, phủ nhận dưới nhiều hình thức khác nhau, với mọi màu sắc của các lực lượng, các trào lưu tư tưởng phi mác-xít. Đấu tranh chống các chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phi mác-xít là cuộc đấu tranh trường kỳ, phức tạp, mang tính sống còn của các đảng cộng sản, những nhà tư tưởng mác-xít và những người cách mạng để bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng triệt để, nhân văn cao cả và những giá trị đương đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các khuynh hướng, trào lưu tư tưởng phi mác-xít vẫn còn xuất hiện và tồn tại. Khi xây dựng học thuyết về các hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph. Ăng-ghen sớm cảnh báo thời kỳ chuyển biến từ hình thái tư bản chủ nghĩa lên hình thái cộng sản chủ nghĩa chưa thể là một xã hội phát triển trên cơ sở của chính nó, mà là một trạng thái xã hội về mọi phương diện, trong đó có các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, còn mang dấu vết của xã hội cũ. Đến đầu thế kỷ XX, V.I. Lê-nin luận chứng sinh động và cụ thể phạm trù thời kỳ quá độ có nghĩa là trong chế độ hiện tồn vẫn có “những thành phần”, “những bộ phận”, “những mảnh” của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định, “một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển...”(6).
Ở nước ta hiện nay, bên cạnh những nhân tố quyết định sự hình thành và bảo đảm con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, vẫn còn hiện hữu không ít nhân tố, trong đó có nhân tố trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, chưa thực sự là của chủ nghĩa xã hội. Sự song hành tồn tại đó dẫn đến các yếu tố chủ nghĩa xã hội và phi chủ nghĩa xã hội luôn đấu tranh, phủ định lẫn nhau; và theo quy luật phát triển, những nhân tố phi chủ nghĩa xã hội sẽ ngày càng bị thu hẹp bởi các yếu tố chủ nghĩa xã hội mang tính trội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, “kết quả là cái mới, cái đang tiến bộ nhất định thắng”(7). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa các tư tưởng phi mác-xít sẽ tự biến mất, ngược lại nó vẫn hiện hữu, nảy nở, thậm chí trỗi dậy nếu xem nhẹ cuộc đấu tranh tư tưởng, không củng cố nền tảng tư tưởng mác-xít, trong bối cảnh quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, những khó khăn của phong trào xã hội chủ nghĩa còn nhiều và chủ nghĩa tư bản trên thế giới hiện nay có ưu thế tạm thời... Đặc biệt, sự phát tán có chủ đích, ngày càng tinh vi những chủ nghĩa, học thuyết phi mác-xít của các thế lực thù địch khiến cho cuộc đấu tranh trên địa hạt tư tưởng, lý luận càng thêm cam go, phức tạp, quyết liệt và lâu dài. Nếu chủ quan, không nhận diện kịp thời bản chất và có giải pháp đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả, các luồng tư tưởng đó có khả năng gây tác hại khôn lường, gây chia rẽ về tư tưởng, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta, mà tiêu biểu là chủ nghĩa tân tự do, lý thuyết xã hội dân sự, chủ nghĩa Mác mới và thuyết hội tụ...
Chủ nghĩa tân tự do
Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, học thuyết John Maynard Keynes(8) với chính sách toàn dụng việc làm và ổn định tiền tệ, nhà nước phúc lợi và việc tích cực can thiệp vào kinh tế mất tín nhiệm vì cuộc khủng hoảng dầu mỏ, việc bãi bỏ chế độ kim bản vị của đồng đô la và tình trạng vừa tăng trưởng thấp, vừa lạm phát cao ở các nước tư bản. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa tân tự do (Neo-liberalism) của Friedrich August von Hayek(9), một sự phục sinh của chủ nghĩa tự do cổ điển (tự do cũ)(10), đã đưa ra các chính sách để cứu vãn chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tân tự do là một trong những trào lưu tư tưởng của kinh tế học tư sản hiện đại. Đặc trưng của lý thuyết này là kết hợp các quan điểm và phương pháp luận của các trường phái tự do cũ, trường phái trọng thương mới, trường phái Keynes mới để đưa ra lý thuyết kinh tế của mình nhằm làm cơ sở cho việc điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói, nó là sự tân trang lại chủ nghĩa tự do cũ, mà đặc trưng của lý thuyết này là sự ủng hộ thị trường tự do, chế độ sở hữu tư nhân và phi điều tiết của nhà nước theo quan điểm “thị trường tối đa, nhà nước tối thiểu”.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, người ta chứng kiến sự nổi lên của hệ tư tưởng tự do mới ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Từ đó đến nay, chủ nghĩa tân tự do giữ vị trí quan trọng, thậm chí thống trị, trong các học thuyết kinh tế chính trị tư sản hiện đại, được nhiều nước phương Tây áp dụng; các nguyên tắc của nó cũng được các nhà kinh tế và hoạch định chính sách của nhiều tổ chức, định chế kinh tế quốc tế toàn cầu sử dụng và là một phần không thể thiếu trong điều khoản của các hiệp định thương mại tự do, với nhiều biến thể, tên gọi khác nhau, như: “Chủ nghĩa tự do mới” (lý thuyết về “Nền kinh tế thị trường xã hội”) ở Đức, “Chủ nghĩa bảo thủ mới” ở Mỹ, “Chủ nghĩa cá nhân mới” ở Anh, “Chủ nghĩa kinh tế” ở Áo... Thậm chí, chủ nghĩa tân tự do còn được chính giới và nhiều nhà tài phiệt tư bản rao giảng như “một tất yếu lịch sử, một trật tự kinh tế và xã hội duy nhất, một chân lý cuối cùng và vĩnh viễn của con người” (?!). Vậy, sự thật đằng sau những rao giảng về chủ nghĩa tân tự do đó là gì?
Một là, chủ nghĩa tân tự do tán dương về “nền kinh tế tự do lý tưởng”, khẳng định “chủ nghĩa tư bản là nấc thang phát triển cao nhất của xã hội loài người”, đồng thời nó cũng không quên cuộc chiến quyết liệt chống chủ nghĩa cộng sản.
Ở một góc độ nhất định, có thể thấy, chủ nghĩa tân tự do có một số yếu tố hợp lý, có thể vận dụng trong hoạt động kinh tế, tài chính và thương mại, nhất là thúc đẩy tự do kinh tế, tự do thương mại, tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường..., đóng góp nhất định vào thành tựu phát triển kinh tế của nhân loại, dù rằng cái giá phải trả đằng sau của nó so với kết quả đạt được là rất đắt. Cũng chính bởi những thành tựu kinh tế từng đạt được và tư tưởng tự do kinh tế dường như không có giới hạn, nên chủ nghĩa tân tự do có sức lôi cuốn nhất định, rất dễ lừa mị tư tưởng, tạo nên không ít ngộ nhận, lầm tưởng. Song, về bản chất, chủ nghĩa tân tự do là học thuyết có nhiều điểm hạn chế, tiêu cực, thậm chí cực đoan, khi bản chất vị lợi nhuận tàn nhẫn của số ít nhà tư sản sẵn sàng chà đạp lên máu, nước mắt của người lao động; sự tàn khốc, lạnh lùng của kim tiền lấn át đi tính nhân văn, nhân bản vì quảng đại con người. Hơn nữa, nó nảy nòi và cắm rễ sâu trên mảnh đất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nên luôn muốn níu giữ, bảo vệ bằng mọi giá, đồng thời che đậy đến cùng những khuyết tật, mặt tối của chế độ tư bản chủ nghĩa. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, trên nền của cùng một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thế giới đã qua ba biến thể: Chủ nghĩa tự do cổ điển, chủ nghĩa Keynes và chủ nghĩa tự do mới. Sự giống nhau của cả ba hình thái đó là đều coi chủ nghĩa tư bản là “xã hội toàn mỹ”, “đỉnh cao nhất của lịch sử nhân loại”(?!).
Sự thật là, chủ nghĩa tân tự do không phải là một học thuyết hoàn bị hay là chìa khóa vạn năng để xây dựng nên một thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản có thể giúp giải quyết mọi khó khăn, bất cập của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tân tự do ngày càng lộ rõ “gót chân Asin” của mình, khi sự tự do thái quá của thị trường như ngựa bất kham, lại bị giật dây bởi tài phiệt tư bản, không có sự kiểm soát hợp lý của nhà nước, dẫn tới những thất bại với hệ lụy khôn lường. Những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính có tính chu kỳ khởi phát từ các nước tư bản vẫn tiếp diễn, gây nên tổn hại nghiêm trọng cho nhân loại, nhất là trút hậu quả lên các nước đang phát triển, nước nghèo. Nhiều chính sách tân tự do được áp dụng từ những năm 80 của thế kỷ XX vẫn để lại di chứng, bất ổn kinh tế, chính trị, xã hội nặng nề cho đến ngày nay. Những sự “mời gọi” về sức hấp dẫn của tự do kinh tế không có giới hạn gắn với các giá trị phương Tây đã sụp đổ ở ngay chính quốc, là nhiều nước tư bản phát triển, nơi sinh ra và nuôi dưỡng chủ nghĩa tân tự do, lẫn một số nước đang phát triển bị cưỡng bức “nhập khẩu” học thuyết này.
Chủ nghĩa tân tự do khoác bộ cánh mới sặc sỡ lên chủ nghĩa tư bản, nhưng không thể làm thay đổi được bản chất bóc lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các chính sách của chủ nghĩa tân tự do, như cắt giảm chi tiêu công, cắt giảm phúc lợi xã hội và tăng lãi suất để giảm lạm phát, duy trì cán cân tài chính; tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước và tiện ích công; tự do hóa thương mại và tài chính; giảm điều tiết thị trường lao động... còn cực đoan hơn so với chủ nghĩa tự do cổ điển của Adam Smith và David Ricardo(11) phát triển trong thế kỷ XIX và đều nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận, thu những nguồn lợi khổng lồ để gia tăng tích lũy tư bản.
Tuy nhiên, “thu nhập và sự giàu có chảy ngược lên trên, thay vì chảy xuống các tầng lớp phía dưới xã hội”(12). Chủ nghĩa tân tự do có thể đúng ở mặt nào đó, nhưng về căn bản, nó là một học thuyết có hại, không góp phần vào sự phát triển bền vững và rõ ràng, nó chỉ đúng với số ít các nhà tư sản đặc quyền, đặc lợi, không hề đúng với số đông các tầng lớp lao động, nhất là khi nó cổ xúy cho mô hình nhà nước ngày càng teo nhỏ gắn với việc cắt giảm tối đa phúc lợi xã hội. Sự bất bình đẳng trong thu nhập và tài sản giữa các giai tầng xã hội ngày càng bị khoét sâu. Hơn thế, bất bình đẳng còn trở thành một đặc tính bản chất của chủ nghĩa tân tự do, khi nó công khai chống chủ nghĩa bình đẳng (bình quân) do nhà nước phúc lợi đề ra và “cha đẻ” của học thuyết này, Friedrich August von Hayek, thậm chí còn biện bạch cho điều này khi từng công khai tuyên bố, “bất bình đẳng là một giá trị tích cực cần thiết cho các xã hội phương Tây”(13), càng khẳng định thêm bản chất của chủ nghĩa tân tự do: Lấy bất bình đẳng làm động lực, lấy cạnh tranh khốc liệt làm quy luật sinh tồn, lấy lợi nhuận làm đích cuối.
Như vậy, ngày nay, chủ nghĩa tư bản tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, tổ chức - quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của nó vẫn không hề thay đổi. Suốt hơn 400 năm tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, “sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”(14), chủ nghĩa tư bản ra đời “thấm đầy máu và bùn nhơ trong mỗi lỗ chân lông của nó”(15). Nhìn sâu vào bên trong, chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay vẫn giữ nguyên nhiều đặc tính của thứ chủ nghĩa tư bản kền kền nguyên thủy, hoang dã và tàn bạo, thậm chí còn suy đồi và tàn nhẫn hơn dưới sự thúc đẩy của chủ nghĩa tân tự do và những tham vọng bá quyền ngày càng lớn và manh động của nhiều chính phủ phương Tây. Và, với đầy rẫy khuyết tật, mâu thuẫn và mặt tối đó, thì rõ ràng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa không thể “toàn mỹ” và là tương lai của loài người; chủ nghĩa tân tự do lại càng không phải là một tất yếu lịch sử, một trật tự kinh tế và xã hội duy nhất, một chân lý cuối cùng và vĩnh viễn của nhân loại, như rao giảng của nhiều chính trị gia và nhà tài phiệt tư bản.
Sau nhiều năm chiếm thế thượng phong, chủ nghĩa tân tự do đang gặp nhiều thất bại. Những cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế, bất ổn chính trị, xung đột vũ trang nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu - nghèo, phân cực xã hội... ở nhiều nước tư bản và trên quy mô toàn cầu càng phơi bày rõ những mâu thuẫn và hạn chế của một triết luận kinh tế chính trị phản ánh bản chất của chủ nghĩa tư bản, một triết luận vì lợi ích của số ít chống số đông. Rõ ràng, chủ nghĩa tự do mới cố gắng làm mới chủ nghĩa tư bản già cỗi, mong đem đến một sức sống mới bằng các liệu pháp tự do hóa được tân chế, song nó vẫn không thể và không bao giờ có thể khắc phục được mâu thuẫn nội tại mang tính bản chất bên trong của chủ nghĩa tư bản, cũng như càng làm trầm kha thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, giữa các nước tư bản và các nước đang phát triển, giữa tư bản và lao động ở quy mô toàn cầu. “Niềm tin của chủ nghĩa tân tự do vào các thị trường không bị ràng buộc như là con đường chắc chắn nhất dẫn đến thịnh vượng của xã hội hiện đang mất uy tín và hấp hối... Thực tế là, bất chấp tên gọi của nó, thời đại của chủ nghĩa tân tự do còn lâu mới tự do”(16).
Cùng với việc xảo biện chủ nghĩa tư bản là “nấc thang cuối cùng của nhân loại”, chủ nghĩa tân tự do cũng chĩa mũi nhọn chống phá quyết liệt chủ nghĩa cộng sản. Bởi, cái mà chủ nghĩa tân tự do tập trung đấu tranh quyết liệt nhất vẫn là những gì mang tính chất tập thể và công hữu, những gì có màu sắc chính sách xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, các nhà tân tự do tự đắc cho rằng đó là “sự cáo chung của lịch sử”, rằng đã xóa bỏ trở ngại cuối cùng ngăn chia toàn bộ thế giới khỏi mục tiêu dân chủ, tự do và kinh tế thị trường (?!). Sự chống phá của những người cổ xúy chủ nghĩa tân tự do là hết sức dễ hiểu, bởi nền móng tồn tại của chủ nghĩa tân tự do là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, là sự bảo đảm thống trị của giai cấp tư sản, sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa; trong khi chủ nghĩa cộng sản được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, cùng sự bảo đảm lợi ích và bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động... - những yếu tố và sự phát triển trực tiếp đe dọa và phủ định sự tồn tại của chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tân tự do chống phá chủ nghĩa cộng sản từ những vấn đề mang tính nền tảng, đi từ các yếu tố kinh tế để tác động đến chính trị, dùng con bài “sức mạnh tự do”, “kinh tế thị trường tự do”... để làm chuyển hóa chế độ chính trị. Hơn nữa, chủ nghĩa tân tự do có nhiều biến thể, trong đó có những dạng thức về danh nghĩa dung hợp thêm yếu tố xã hội để phần nào giảm bớt tính cực đoan, cân bằng hơn giữa yếu tố tự do và công bằng, giữa vai trò của thị trường và vai trò của nhà nước... rất dễ gây lầm tưởng, dù rằng đó chỉ là sự cải tổ những yếu tố bề ngoài, còn bản chất của nó đương nhiên không bao giờ thay đổi.
Suy cho cùng, chủ nghĩa tân tự do luôn là một hình thái tư bản chủ nghĩa, và rõ ràng, nó không phải là một học thuyết ưu việt đại diện cho một phương thức sản xuất tiến bộ nhất của nhân loại; ngược lại, chính nó đã và đang dọn đường, mở ra những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới, hình thái kinh tế - xã hội phát triển ở trình độ cao hơn: Chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa nền kinh tế, hạ thấp vai trò của nhà nước, đồng thời thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân.
Có thể nói, tư nhân hóa là một “pháp bảo”, được chủ nghĩa tân tự do bảo vệ bằng mọi giá, vì tư hữu tư bản chủ nghĩa chính là cơ sở sinh tồn của nó; sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ thì chủ nghĩa tư bản tiêu vong và tự khắc chủ nghĩa tân tự do cũng không còn bất kỳ cơ sở nào để tồn tại. Nó lo sợ việc nhà nước can thiệp vào kinh tế, hệ lụy không tránh khỏi là khu vực tư nhân, cái lõi của chủ nghĩa tư bản, sẽ bị lề hóa, thậm chí bị loại bỏ. Đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa nền kinh tế, cổ xúy cho sự “tồn tại vĩnh hằng” của chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa tư bản, đồng thời xuất khẩu tư tưởng này theo dòng chảy của đầu tư tư bản khắp thế giới.
Tuy nhiên, quá trình phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nghĩa là các hình thái kinh tế - xã hội không tồn tại vĩnh viễn, mà luôn thay thế lẫn nhau, xã hội trước tạo tiền đề vật chất cho xã hội sau phủ định nó, cho đến khi nhân loại đi đến chủ nghĩa cộng sản. Do đó, việc xóa bỏ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, do chính những mâu thuẫn trong lòng của chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo quy luật phủ định của phủ định, chính nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra sự phủ định bản thân nó, phủ định chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, như một tất yếu để tạo nên chế độ công hữu. “Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”(17). Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, phải dựa trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan và không phải xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà chỉ là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản nô dịch lao động của người khác.
Việc chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa tất cả những gì tư nhân có thể làm được trong một thị trường tự do ở quy mô toàn cầu giữ vị trí thống lĩnh, đồng thời xem nhẹ vai trò của nhà nước cũng là nhằm tích tụ tư bản ngày càng lớn, tập trung tài sản vào một số ít nhà tư sản kếch sù. Hay nói đúng hơn, đó là cuộc tấn công của tầng lớp thượng lưu toàn cầu chống nhân dân lao động ở mỗi nước tư bản và trên toàn thế giới; đồng thời, nó cũng không thuần túy là một luận thuyết kinh tế, mà có mục đích chính trị rất rõ ràng, nhất là để bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Có điều, suốt nửa thế kỷ qua, những diễn ngôn chính trị của các nhà cầm quyền tư bản về việc tư nhân hóa tạo cơ chế tự điều chỉnh để mọi người đều giàu có, xã hội thịnh vượng, mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của nhà nước ngày càng xa vời. Thậm chí khác xa trên thực tế, khi bản thân nhiều chính phủ của các nước tư bản phát triển đã nhiều lần tiến hành quốc hữu hóa doanh nghiệp dưới các hình thức và cấp độ khác nhau, từ áp đặt quyền kiểm soát đặc biệt, cứu trợ tài chính, nắm cổ phần chi phối đến việc thành lập doanh nghiệp nhà nước dựa trên mua lại các doanh nghiệp tư nhân để kiểm soát một lĩnh vực nào đó...
Thực tế, chủ nghĩa tự do mới cũng không phủ nhận hoàn toàn vai trò của nhà nước; nó chỉ muốn một nhà nước tối thiểu hay nói đúng hơn cần nhà nước với quy mô do nó định đoạt, hành động theo nó yêu cầu. Nó hô hào nhà nước tối thiểu nhưng lại là tối đa trong phục vụ sở hữu tư nhân, phục vụ những tập đoàn tư bản bá quyền. Nó hô hào tránh xa chủ nghĩa nhà nước (statism) và hướng tới trật tự sở hữu tư nhân (private property order), nhưng nhà nước tư bản sẵn sàng can thiệp thô bạo vào nền kinh tế, lợi ích của đa số người dân và trật tự xã hội khi cần bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, nhất là tầng lớp chóp bu. Nhà nước ở các quốc gia tư bản còn ngày một lớn hơn, không hề “tối thiểu” như họ tuyên bố, thậm chí còn hình thành mô hình siêu nhà nước qua liên kết các cường quốc tư bản lại với nhau, thành dạng thức liên nhà nước, để can thiệp, tác động, điều khiển nền kinh tế, chính trị thế giới... Chủ nghĩa tân tự do gắn liền với chủ nghĩa bá quyền, bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc gia.
Sau nhà nước, đối với vấn đề cá nhân, chủ nghĩa tân tự do cũng thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân tư sản, nhấn mạnh đặt cá nhân lên trên xã hội. Nó cổ xúy cho thứ chủ nghĩa cá nhân cực đoan và quyền tự do bóc lột không giới hạn được hình thành và tồn tại trong xã hội tư bản. Nó không thừa nhận cá nhân trong mối quan hệ tùy thuộc, hợp tác, hội nhập với tổng thể xã hội. Đối với chủ nghĩa tự do đương đại, cá nhân là trục xuyên suốt xã hội và lịch sử, có thể áp đặt cho tập thể cái cá thể trung tâm của mình vì lợi ích riêng(18), trỗi dậy sự vị kỷ hẹp hòi, tư lợi để vinh thân phì gia, giữa người và người không còn mối liên hệ nào ngoài quan hệ mua bán, đổi chác..., là con đường ngắn nhất làm cho đạo lý xã hội ngày càng suy đồi. Quan điểm của chủ nghĩa tân tự do sẽ dẫn đến những kết cục nguy hiểm bởi giành ưu quyền cho cá nhân thì lợi ích của tập thể sẽ bị lấn át, thậm chí phế bỏ...
Chủ nghĩa Mác tôn trọng tự do và lợi ích cá nhân đúng đắn, nhưng sự phát triển của mỗi cá nhân không tách rời với xã hội trong tổng thể, không tách rời với tự nhiên. “... Cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người”(19). Cơ sở nảy sinh, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa cá nhân chính là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, muốn xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân, cần phải loại bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, đồng thời phải tiến hành xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng cảnh báo, chủ nghĩa cá nhân chính là “giặc nội xâm” vô cùng nguy hiểm, trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân là yêu cầu tất yếu để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; là công việc phải tiến hành thường xuyên để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người nhấn mạnh: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(20).
Chủ nghĩa tân tự do được coi là đại diện cho một thứ chủ nghĩa tư bản mới, là bộ mặt tân thời của chủ nghĩa tư bản hiện đại, nên nó vẫn tiếp tục được cổ xúy, tán dương, thậm chí được các nước tư bản tìm mọi cách “xuất khẩu” sang các quốc gia khác, mà đằng sau đó là những mưu tính chính trị được che đậy tinh vi bằng con bài của những học thuyết kinh tế. Các nhà kinh tế tự do o ép các nước đang phát triển cải tổ triệt để mọi khu vực của nền kinh tế. Các diễn ngôn, tư tưởng và sáng kiến hướng đến mục tiêu kinh tế được sử dụng như một công cụ nhằm đạt được mục đích chính trị, nhất là chuyển hóa các nước theo con đường tư bản chủ nghĩa và ràng buộc về chính trị.
Khu vực Mỹ La-tinh là “một phòng thí nghiệm” điển hình của chủ nghĩa tân tự do từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Khi áp dụng vào khu vực Mỹ La-tinh, chủ nghĩa tân tự do đã thất bại. Chủ trương “nhà nước nhỏ, thị trường lớn” làm suy yếu các chính phủ ở đây, đồng thời diễn ra quá trình xâm chiếm của các công ty đa quốc gia, tư bản nước ngoài đối với các khu vực kinh tế trọng yếu, ngành công nghiệp chủ chốt, như dầu khí... của nhiều nước khu vực Mỹ La-tinh, dưới sự tiếp tay của một bộ phận quân đội, tư sản mại bản, đại điền chủ trong nước, cùng ràng buộc của các hiệp định thương mại tự do. Từ một khu vực phát triển, ngày nay, Mỹ La-tinh giảm sút sự thịnh vượng rất nhiều, trong khi xung đột xã hội, bất ổn gia tăng, tiếp tục lệ thuộc vào các nước tư bản phương Tây. Nhân dân nhiều nước khu vực Mỹ La-tinh đã nổi dậy chống quá trình tư hữu hóa và phi điều tiết nền kinh tế dưới tác động của chủ nghĩa tân tự do, trỗi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quay trở lại quốc hữu hóa nhiều ngành kinh tế quan trọng...
Trên phạm vi thế giới, chủ nghĩa tư bản tiếp tục cuộc thập tự chinh toàn cầu hóa dưới lá bài chủ nghĩa tân tự do để khuyến khích các nước mở toang biên giới cho tư bản được tự do tràn vào mọi nơi nhằm tối đa hóa lợi nhuận ở quy mô và mức độ cao hơn nhiều so với thời kỳ của chủ nghĩa tự do cổ điển, với sự hỗ trợ của các tập đoàn xuyên quốc gia, các định chế tài chính toàn cầu hùng hậu, tạo sức ép và sợi dây ràng buộc, lệ thuộc lớn về kinh tế, chính trị lên các quốc gia kém phát triển hơn, thúc đẩy tư nhân hóa các nền kinh tế nó đi qua, chuyển quyền lực cùng các nguồn lực sang các nhà tư sản trong nước và nước ngoài. Các thiết chế tài chính quốc tế nghiễm nhiên đòi giữ vai trò giám sát, thậm chí can thiệp vào nền kinh tế của các nước đang phát triển, nhất là các nước vay nợ... Nó gia tăng sự vay nợ trên bình diện toàn cầu, trong đó không ít trường hợp tạo ra gánh nặng nợ nần, đè nặng lên vai các nước đang phát triển. Chủ nghĩa tân tự do cũng là một tác nhân góp phần gây nên những cuộc khủng hoảng tài chính chu kỳ, nhất là khi dòng vốn tự do mất kiểm soát bị di chuyển ồ ạt, gây tổn thương lớn tới các quốc gia đang phát triển do khả năng chống chịu với các cú sốc toàn cầu còn yếu. Có thể nói, trong thời đại chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, chủ nghĩa tự do mới đưa sự bất bình đẳng và bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vươn ra ở quy mô toàn cầu, sự bóc lột giá trị thặng dư mang “tính quốc tế” và ngày càng tinh vi hơn...
Việc thấu rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do để chúng ta tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác, không để rơi vào bẫy “tự do kinh tế” theo mô hình tư bản chủ nghĩa; đồng thời kiên định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo mọi điều kiện để phát triển kinh tế tư nhân như là một động lực quan trọng, song tuyệt đối phải giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trên cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế này, khuyến khích nhưng phải có chọn lọc phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới một cách chủ động, chắc chắn, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn giữa tuân theo các quy luật kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, không ngừng vun bồi nội lực quốc gia, nhuần nhuyễn trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”...
Việc thấu rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do cũng để chúng ta nhận diện và đấu tranh hiệu quả với học thuyết này, cùng niềm tin khoa học vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, về thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
(Còn nữa)
--------------------
(1), (2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 50
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t. 38, tr. 158 - 159
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 131
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 49
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 238
(8) Trường phái kinh tế Keynes do John Maynard Keynes (1883 - 1946), nhà kinh tế nổi tiếng người Anh sáng lập, tập trung vào giải quyết vấn đề lớn là tăng trưởng và việc làm trên cơ sở phát huy vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước
(9) Friedrich August von Hayek (1899 - 1992) là nhà kinh tế người Anh gốc Áo, là một trong những người sáng lập chủ nghĩa tân tự do, nghiên cứu các cuộc khủng hoảng và bảo vệ thuyết trọng tiền, chống học thuyết Keynes, cũng là một trong những nhà kinh tế chống chủ nghĩa xã hội quyết liệt.
(10) Những tư tưởng về tự do kinh tế xuất hiện rất sớm trong lịch sử, được thể hiện trong tác phẩm của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển và chủ nghĩa tự do kinh tế thực sự xuất hiện và trở thành tư tưởng thống trị trong các lý thuyết tư sản trước những năm 30 của thế kỷ XX. Chủ trương tự do kinh tế là các lý thuyết tư sản coi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là hệ thống hoạt động tự động, do các quy luật kinh tế khách quan tự phát điều tiết. Tư tưởng cơ bản của nó là tự do kinh doanh, tự do tham gia thị trường, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
(11) Adam Smith (1723 - 1790) là nhà kinh tế học người Scotland và David Ricardo (1772 - 1823) là nhà kinh tế học người Anh, là các đại diện tiêu biểu cho kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
(12) Joseph E. Stiglitz: “The End of Neoliberalism and the Rebirth of History” (Tạm dịch: Sự cáo chung của chủ nghĩa tân tự do và sự tái sinh của lịch sử), Project Syndicate, 4-11-2019
(13) Nguyễn Văn Thanh: Nhận diện chủ nghĩa tự do mới, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, tr. 29
(14) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 23, tr. 872
(15) Đỗ Thế Tùng: “Nhận thức và ứng xử đúng quy luật với vấn đề bóc lột trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22-10-2019. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/814223/nhan-thuc-va-ung-xu-dung-quy-luat-voi-van-de-boc-lot-trong-qua-trinh-phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam.aspx
(16) Joseph E. Stiglitz: “The End of Neoliberalism and the Rebirth of History” (Tạm dịch: Sự cáo chung của chủ nghĩa tân tự do và sự tái sinh của lịch sử), Sđd
(17) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 616
(18) Nguyễn Văn Thanh: Nhận diện chủ nghĩa tự do mới, Sđd, tr. 33
(19) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 200
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 610