Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - kết tinh truyền thống yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam

PGS, TS. Vũ Quang Vinh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
16:28, ngày 10-07-2022

TCCS - Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, khi Tổ quốc lâm nguy, những lời kêu gọi cứu nước hợp lòng dân sẽ phát huy cao độ tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm của toàn dân. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (ngày 19-12-1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành tiếng gọi của non sông đất nước, khơi dậy được mạnh mẽ truyền thống yêu nước của dân tộc, làm cho cả nước đứng lên chiến đấu, với ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Lời kêu gọi cũng thể hiện một chiến lược quân sự - chính trị đúng đắn, phù hợp, dẫn đến thắng lợi cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ, thể hiện cao độ khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

1 - Từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946, cục diện chính trị quốc tế và tình hình Đông Dương có những diễn biến phức tạp. Sự góp mặt của gần 300.000 quân Anh - Pháp - Tưởng - Nhật hung hăng châm ngòi lửa chiến tranh, cùng với “giặc đói” và “giặc “dốt” đẩy nước ta vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên sức mạnh toàn dân, kiên quyết chống xâm lăng, giữ vững chính quyền, chủ động chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến lâu dài trong cả nước.

Chiến sĩ, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Thủ đô Hà Nội, ngày 23-12-1946 - những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, với ý chí "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh"_Ảnh: Tư liệu

Được đế quốc Anh, Mỹ tiếp sức, từ khi đưa quân ra miền Bắc theo Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp bội ước, gạt bỏ mọi khả năng thương lượng, ráo riết thực hiện âm mưu mở rộng chiến tranh. Chúng biến đội quân “tiếp phòng” thành đội quân chiếm đóng và áp dụng hình thức “đánh lấn”. Sau khi chiếm Tây Nguyên, một phần Đông Bắc, Tây Bắc, Pháp ngang nhiên tấn công Hải Phòng, Lạng Sơn. Chúng khẩn trương chuẩn bị gây chiến ở Hà Nội với mục đích nắm quyền quản lý Thủ đô Việt Nam nhằm “vô hiệu hóa tức thì Chính phủ Hồ Chí Minh”.

Ở miền Bắc, Đảng ta từ hoạt động bí mật trở thành đảng cầm quyền, chính quyền mới được thành lập. Trong những điều kiện mới, Đảng ra sức xây dựng lực lượng, phát triển tổ chức, xác lập quyền lãnh đạo trên mọi lĩnh vực, tổ chức động viên toàn dân kháng chiến ở miền Nam và đấu tranh chính trị ở miền Bắc.

Nhiệm vụ xây dựng chính quyền sớm được Đảng xác định về nguyên tắc và biện pháp tiến hành, đồng thời chủ động chống giặc ngoại xâm. Đảng chăm lo xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân ở các cấp, chăm lo đời sống vật chất của nhân dân, bảo đảm chính quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân.

Hội nghị cán bộ Bắc Kỳ của Đảng, từ ngày 10 đến ngày 11-9-1945, vạch rõ nhiệm vụ chính lúc đó là: “Củng cố chính quyền, dùng chính trị, ngoại giao, vũ khí cần thiết đến dùng quân sự để giữ vững nền độc lập. Chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để chống mọi sự xâm lăng”(1). Tiếp đó, xác định nhiệm vụ xây dựng chính quyền: “Cấp tốc tổ chức U.B.N.D (Ủy ban nhân dân) các làng các phố”(2) theo hướng mở rộng ủy ban để các tầng lớp nhân dân ngoài Việt Minh tham gia. Về nhân sự, phải tẩy trừ những phần tử phản động trong ủy ban, lấy những người đứng đắn, có tín nhiệm đưa vào; coi chừng bọn đầu cơ lén lút ăn tiền của nhân dân và bài trừ những "ông quan" cách mạng…

Chính quyền tập trung giải quyết các vấn đề dân sinh, dân chủ, đẩy lùi nạn đói, xóa nạn mù chữ, khôi phục sản xuất, gắn bó mật thiết với nhân dân. Trên mặt trận diệt “giặc dốt”, nâng cao dân trí cho nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”(3) và “Muốn giữ vững nền độc lập. Muốn làm cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”(4). Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào toàn dân tham gia bình dân học vụ phát triển sâu rộng. Chỉ sau một năm đã có thêm 2 triệu người biết chữ.

Cuối tháng 11-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, chỉ rõ các nhiệm vụ và phương pháp thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị nhấn mạnh: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng(5) và tiếp tục đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết(6). Hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc có quan hệ khăng khít.

Về quân sự, động viên toàn dân kháng chiến; tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài; kết hợp chiến thuật chiến tranh du kích và sự bất hợp tác với địch; giữ vững liên lạc, thống nhất chỉ huy, tăng cường sự lãnh đạo của Trung ương đối với cuộc kháng chiến ở Nam Bộ và Trung Nam Bộ…

Về chính trị, tăng cường xây dựng khối đoàn kết toàn dân; nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội, xây dựng Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức, ban hành những sắc lệnh mang lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân; xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ở các địa phương…

Về kinh tế - tài chính, huy động các nguồn lực nhanh chóng khôi phục sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp, khuyến khích phát triển thương nghiệp; xây dựng hệ thống ngân hàng, thuế, ngân quỹ, phát hành giấy bạc…

Về văn hóa - xã hội, bài trừ nạn mù chữ, cải cách hệ thống giáo dục và xây dựng nền giáo dục mới, xây dựng nền văn hóa mới theo nguyên tắc: Dân tộc - khoa học - đại chúng…

Về ngoại giao, thực hiện nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ” nhằm thêm bạn bớt thù, chú ý biểu dương thực lực để chứng tỏ sức mạnh và ý chí dân tộc. Với chính quyền Trung Hoa Dân quốc, trước mắt tỏ ra thân thiện; đối với Pháp, thực hiện độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế…

Về Đảng, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức đảng, duy trì hệ thống tổ chức bí mật và nửa công khai của Đảng, phát triển đảng viên và tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan, xí nghiệp, trong quân đội; giữ vững sinh hoạt đảng…

Về Mặt trận Việt Minh, phát triển các tổ chức cứu quốc, không ngừng mở rộng thành viên Mặt trận nhằm đoàn kết rộng rãi hơn nữa các lực lượng yêu nước và tiến bộ…

Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc thể hiện rõ sự vững vàng, nhạy bén của Đảng về chính trị và khả năng lãnh đạo cách mạng. Trên cơ sở những chủ trương, biện pháp được hoạch định, Đảng Cộng sản Đông Dương, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẩn trương triển khai hàng loạt các nhiệm vụ cấp bách, mà trước hết chống “giặc đói” hồi phục sức lực đã kiệt quệ của hàng triệu nông dân sau nạn đói năm 1945 và diệt trừ “giặc dốt”, xem đó là hai trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất của chính quyền dân chủ nhân dân.

Để giải quyết khó khăn của nền tài chính quốc gia, ngày 4-9-1945, Chính phủ ra sắc lệnh xây dựng “Quỹ độc lập”, phát động “Tuần lễ vàng” thu được 370kg vàng và 20.000.000 đồng Đông Dương vào “Quỹ độc lập”.

Cùng với nhiệm vụ cứu đói, khôi phục sản xuất, phát triển văn hóa, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại âm mưu ly gián Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch. Đảng nắm quyền lãnh đạo chặt chẽ lực lượng vũ trang, thực hiện thống nhất chỉ huy bộ đội, tổ chức đấu tranh hiệu quả chống bọn phản cách mạng.

Cuộc Tổng tuyển cử (ngày 6-1-1946) được tiến hành khẩn trương trên cả nước, ngay trong khói lửa chiến tranh, xác lập quyền làm chủ đất nước của toàn dân, biểu thị sự tín nhiệm tuyệt đối Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta còn là cuộc động viên chính trị rộng lớn và sâu sắc, biểu thị sức mạnh đoàn kết và quyết tâm làm chủ của nhân dân ta, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao của Chính phủ ta, tăng thêm uy tín quốc tế của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn chính sách đối ngoại mềm dẻo, khôn khéo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa hàng ngũ kẻ thù. Để tránh rơi vào thế đối lập với kẻ thù “khoác áo” Đồng minh, Đảng chủ trương Hoa - Việt thân thiện, hòa hoãn với chính quyền Tưởng Giới Thạch, tập trung mũi đấu tranh chống thực dân Pháp đang tái xâm lược Nam Bộ, đồng thời vừa nhân nhượng, vừa đấu tranh ngăn chặn và dập tắt những mưu đồ phản loạn của các tổ chức phản động làm tay sai cho chính quyền Tưởng Giới Thạch.

Sau Hiệp ước Hoa - Pháp (ngày 28-2-1946), ta chủ trương hòa với Pháp để đẩy nhanh quân đội của chính quyền Tưởng về nước. Kế thừa truyền thống yêu chuộng hòa bình, tránh cho hai dân tộc Việt - Pháp đổ máu vô ích, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định ký với Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ (ngày 6-3-1946) với sự nhân nhượng tối đa và mở cuộc đàm phán với Chính phủ Pháp. Tuy nhiên Chính phủ Pháp đã xóa bỏ mọi cam kết và tiếp tục đẩy cuộc chiến tranh xâm lược của họ lên quy mô lớn hơn nhằm tái chiếm Đông Dương. Thiện chí hòa bình của dân tộc Việt Nam, của Trung ương và Chính phủ Hồ Chí Minh tiếp tục bị thách thức khi thực dân Pháp phớt lờ Tạm ước Việt - Pháp đã được ký ngày 14-9-1946 giữa hai chính phủ. Ngay trong đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tới đồng bào cả nước Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định ý chí kiên quyết chống xâm lăng, giành và giữ hòa bình của dân tộc Việt Nam. Toàn dân siết chặt đội ngũ, kiên quyết bảo vệ chính quyền của nhân dân.

2 - “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(7). Truyền thống yêu nước Việt Nam được thử thách qua hàng ngàn năm lịch sử, được khẳng định bởi những thắng lợi chống kẻ thù lớn, mạnh gấp nhiều lần và bởi công cuộc kiên trì, bền bỉ dựng nước để có một Việt Nam tươi đẹp hôm nay. Sức mạnh Việt Nam từ khi có Đảng trước hết thể hiện ở đường lối đúng đắn của Đảng nhằm giải quyết những yêu cầu lịch sử đặt ra. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là kết tinh của những truyền thống cao đẹp đó.

Một là, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khái quát đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Chỉ có 198 từ nhưng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến thể hiện đầy đủ, sinh động đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(8).

Để có được sự khẳng định đó, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn chiến lược: Xác định tính chất và nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, ra sức xây dựng chế độ, Nhà nước mới; phân loại kẻ thù, kịp thời đề ra đối sách thích hợp trong từng thời đoạn cụ thể tránh nguy cơ trong cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù; giải quyết những khó khăn và hậu quả của chế độ thực dân phong kiến để lại; tiến hành các hoạt động ngoại giao mềm dẻo, nhân nhượng có nguyên tắc và giới hạn, hoạch định đường lối kháng chiến: toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh; lãnh đạo, tổ chức toàn quân, toàn dân xây dựng lực lượng về mọi mặt chuẩn bị kháng chiến, chủ động phát động cả nước tiến hành kháng chiến.

Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Trung ương Đảng, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã thể hiện rõ đường lối kháng chiến của Đảng.

Hai là, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - kết tinh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mở đầu Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Hỡi đồng bào toàn quốc(9); sau khi khẳng định thiện chí hòa bình của dân tộc Việt Nam bị thực dân Pháp phủ nhận, Người nhắc lại: “Hỡi đồng bào!”(10). Với người Việt Nam, hai tiếng “đồng bào” để gọi những người chung nòi giống, cùng dân tộc, chung Tổ quốc, thân thiết như anh em một nhà. Với hàm nghĩa sâu xa đó, tiếng “đồng bào” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến một cách trang trọng, thiêng liêng sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu “đồng bào”: “Kể năm hơn bốn ngàn năm,/ Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa./ Hồng Bàng là tổ nước ta”(11). “Đồng bào” là khái niệm mang bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam, là “sức mạnh mềm” của dân tộc, là một yếu tố quan trọng tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ba là, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Với thiện chí hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ đã ký Hiệp định Sơ bộ Pháp - Việt với J.Sainteny - đại diện chính phủ Pháp ngày 6-3-1946, ký Tạm ước Việt - Pháp với Bộ trưởng Bộ Pháp quốc Hải ngoại M. Moutet - đại diện Chính phủ Pháp ngày 14-9-1946. Nội dung bản Tạm ước khẳng định lại chính phủ hai nước cam kết tiếp tục chính sách hợp tác như Hiệp định Sơ bộ đã nêu và nhân nhượng cho người Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa. Nhưng đây cũng là giới hạn cuối cùng của sự nhân nhượng. Đảng ta khẳng định: “Sự thật đã chứng rằng: thực dân Pháp ngang nhiên khiêu hấn. Chúng định dùng võ lực bắt ta phải nhượng bộ. Nhưng không khi nào ta chịu. Tạm ước 14-9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”(12).

J. Sainteny thất bại trong việc thúc đẩy chính quyền thực dân thi hành thỏa thuận Pháp - Việt đã thừa nhận: “Những lời nói, những hành động, thái độ của Người, tất cả đều thuyết phục là Người không muốn dùng giải pháp bạo lực”(13). Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khẳng định: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!”(14).

Thiện chí hòa bình của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính nước xâm lược ghi nhận. Tổng thống Pháp F.Mitterand - Tổng thống đầu tiên của một nước thuộc G.7 sang thăm chính thức Việt Nam (tháng 2-1993), đã trả lời phỏng vấn các nhà báo: “Hồ Chí Minh đã tìm kiếm những người đối thoại, nhưng không tìm được, dù rất mong muốn đàm phán để hướng tới độc lập, Hồ Chí Minh đã bị đẩy vào cuộc chiến tranh”(15).

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến còn thể hiện sự tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam mặc dù có thể chịu nhiều hy sinh: “Dù phải gian lao kháng chiến, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”(16).

Như vậy, Ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946 đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán chính xác thời điểm nổ súng, biến bị động thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân quân địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát động toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 tại Thủ đô thể hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm và sáng tạo. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khẳng định truyền thống yêu nước, yêu hòa bình, quyết tâm chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc Việt Nam góp thêm sức mạnh để một lần nữa dân tộc Việt Nam chiến thắng giặc ngoại xâm.

Các đại biểu tham quan triển lãm chuyên đề “Lời thề quyết tử” do Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam (Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) tổ chức nhân kỷ niệm 75 năm Ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946 - 19-12-2021)_Ảnh: TTXVN

Hơn 75 năm đã qua nhưng khí thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã trở thành ngày lịch sử, là dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trải qua bao biến cố thăng trầm của thời gian, nhưng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ, hiệu triệu quốc dân đồng bào kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, đoàn kết nhất trí đánh giặc, giữ nước, giành giữ độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc.

Ngày nay, Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên tính thời sự, đó là niềm tin tất thắng, là giá trị độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Với hướng đi đúng đắn, khát vọng phát triển mãnh liệt và quyết tâm chính trị cao, đất nước ta nhất định sẽ lập nên kỳ tích phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta”(17)./.

-------------------

(1),( 2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 8, tr. 6, 7
(3) Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội , 2011, t. 4, tr. 7
(4) Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, t .4, tr. 40
(5), (6)  Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 26
(7) Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 38
(8), (9,) (10) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 160, 160, 160
(11) Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 259
(12) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 43 - 44
(13) Xem: Nguyễn Di Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr. 130
(14) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 160
(15) Vũ Như Khôi: Văn hóa giữ nước Việt Nam - Những giá trị đặc trưng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 209
(16) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 160
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 205