Xây dựng, phát huy vai trò của nông dân trên cơ sở văn kiện Đại hội XII của Đảng

ThS. Trần Mai Hùng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
10:54, ngày 14-10-2016

TCCSĐT - Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định phương hướng: Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Để thực hiện phương hướng do Đại hội XII của Đảng đặt ra, cần phải thực hiện các giải pháp sau:

Một là, phát triển nông dân Việt Nam trở thành lực lượng lao động tiên tiến, lực lượng chính trị - xã hội vững mạnh và là lực lượng chủ yếu giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở nông thôn trong quá trình xây dựng nền tảng của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa

Trong quá trình tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt trong nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam chính là những người tích cực tham gia vào quá trình xây dựng nông thôn mới, chủ động, sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tổ chức sản xuất nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giữ gìn nếp sống văn hóa, thuần phong mỹ tục, do đó, cũng là nhân tố cơ bản góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống chính trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm an ninh trật tự tại nông thôn.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, do đó, cơ bản là sự nghiệp của nông dân với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Từ nội dung, yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay, việc phát triển nông dân trở thành lực lượng lao động tiên tiến, lực lượng chính trị - xã hội vững mạnh và lực lượng chủ yếu giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở nông thôn, nhằm góp phần xây dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa là phương hướng chỉ đạo có ý nghĩa then chốt.

Cách thức thực hiện phương hướng này, trước hết và cơ bản là làm cho nông dân hiểu biết sâu sắc và ứng dụng ngày càng phổ biến, hiệu quả tri thức khoa học, công nghệ, văn hóa và không ngừng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá toàn diện, văn minh, có hiệu quả phù hợp kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tiếp tục đổi mới và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế trang trại và các hình thức kinh tế hợp tác, hợp tác xã kiểu mới, vững mạnh; và đẩy nhanh quá trình xuất hiện mô hình doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp đô thị;…

Muốn vậy, công tác vận động nông dân chiếm vị trí rất quan trọng. Đây là quá trình tiếp tục nâng cao sự giác ngộ cho nông dân, luôn gắn với tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy vai trò của nông dân trong khối đại đoàn kết dân tộc, nâng cao hiệu quả trong việc phát huy dân chủ ở nông thôn, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Đây là quá trình tổ chức, đoàn kết nông dân dưới nhiều hình thức mà Hội Nông dân Việt Nam là nòng cốt; thực hiện dân chủ hóa đời sống tinh thần ở nông thôn và phát huy truyền thống văn hóa, yêu nước của nông dân, nhằm đẩy mạnh việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nông dân gắn với xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, văn minh, tiến bộ.

Để phát huy tốt vai trò của nông dân trong xây dựng nông thôn mới cần quan tâm, coi trọng sự liên minh của nông dân với giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm tập hợp lực lượng, chăm lo bảo vệ và nâng cao trình độ mọi mặt cho nông dân để họ chủ động, tích cực góp phần tạo lập nền tảng sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trước hết ở cơ sở nông thôn (làng, bản, buôn, ấp). Do đó, các cấp ủy đảng, chính quyền, các bộ, ban, ngành cần quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tổ chức lãnh đạo, xây dựng một số chương trình hành động cụ thể và thiết thực, nhằm tạo bước chuyển biến rõ rệt và hiệu quả trong nhận thức và trách nhiệm xã hội đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

Hai là, tái cấu trúc, tạo bước đột phá mới về nông nghiệp Việt Nam để thúc đẩy phát triển và bảo đảm quyền lợi của nông dân 

Cần tiến hành các biện pháp tái cấu trúc nền nông nghiệp nước ta theo hướng: a/ tập trung hóa trên cơ sở tích tụ đất đai; b/ chuyên môn hoá; c/ hiện đại hóa; d/ sử dụng công nghệ xanh. Đó là cơ sở để nông nghiệp hàng hóa Việt Nam có sức cạnh tranh cao và phát triển bền vững, đồng thời phát triển và bảo đảm quyền lợi của nông dân. Qua đó, chủ động, tích cực đẩy mạnh tăng trưởng nông nghiệp hiện đang có dấu hiệu chững lại, tăng cường hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới và nâng cao đời sống nông dân, đặc biệt tại các vùng núi, biên giới, hải đảo. Một vấn đề quan trọng hiện nay là phát hiện động lực mới gắn với cơ cấu nông nghiệp mới, để tạo bước đột phá, đáp ứng nguyện vọng cải thiện nhanh đời sống nông dân và góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Cách thức giải quyết vấn đề này là: xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa lớn gắn với cơ cấu nông nghiệp mới dựa vào trục phát triển trọng tâm là những sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới chủ lực có hiệu quả cao, sẽ giúp nông dân thu được nhiều lợi ích, đồng thời tạo ra những sản phẩm có chuỗi giá trị gia tăng cao và có sức cạnh tranh quốc tế. Cơ cấu nông nghiệp mới ngày nay luôn gắn với công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, gắn với phát triển đô thị. Thông qua đó, bảo đảm nền nông nghiệp hàng hóa của nước ta có đủ thực lực để đứng vững và phát triển trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu với nền kinh tế khu vực và thế giới thông qua WTO, TPP, và các hiệp định thương mại tự do song phương,...

Muốn vậy, cần hoàn thành cơ bản việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đất đai, quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp; và quy hoạch bố trí lại dân cư nông thôn gắn với việc quy hoạch xây dựng công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị ở các vùng. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu gắn với vùng nguyên liệu và thị trường, đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp, triển khai chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề; phát triển nhanh và nâng cao chất lượng các loại dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống của nông dân và dân cư nông thôn gắn liền với việc nâng cao năng lực phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trên sông, trên biển; chủ động triển khai các công trình giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nhằm bảo vệ, cải thiện môi trường sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân,… Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững thông qua các tiêu chí cụ thể, nhằm bảo đảm quyền lợi của nông dân, phù hợp với đặc điểm từng vùng kinh tế.

Ba là, đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả cho nông dân

Kinh tế hộ nông dân, đặc biệt kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác và hợp tác xã tồn tại lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô ngày càng lớn. Trên cơ sở đó, khuyến khích phát triển các mối liên kết giữa các hộ nông dân với các tổ kinh tế hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hướng kinh tế trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hoá lớn; đặc biệt khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ký hợp đồng với nông dân, nhất là qua các tổ kinh tế hợp tác, hợp tác xã, để hỗ trợ vốn, chuyển giao kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm do nông dân làm ra với giá cả hợp lý.

Giải pháp cơ bản là phát huy lợi thế so sánh của nền nông nghiệp nhiệt đới; thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng tiến bộ khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp; có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất cho sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại; từng bước hình thành các tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao gắn với việc hình thành, phát triển các vùng nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời thể chế rõ vai trò hạt nhân của doanh nghiệp trong nông nghiệp. Trên cơ sở đổi mới căn bản việc tổ chức quản lý nông, lâm trường quốc doanh, thực hiện tốt việc giao khoán đất, vườn cây cho người lao động; nông, lâm trường quốc doanh chuyển sang làm tốt các dịch vụ cho người nhận khoán và nông dân trong vùng; giải quyết dứt điểm những vấn đề liên quan tới việc chuyển giao quyền sử dụng đất của nông dân.

Trong quá trình đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân, kinh tế tư nhân là lực lượng quan trọng có khả năng thu hút vốn và nhiều lao động để phát triển sản xuất, kinh doanh ngành, nghề đa dạng, tăng năng lực chế biến, tiêu thụ nông sản, làm dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân và nông thôn nói chung.

Bốn là, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động các nguồn lực trong xã hội nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống của nông dân 

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đặt ra nhiệm vụ: Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin..., cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích nông dân làm giàu hợp pháp.

Một trong những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện nhiệm vụ này là sửa đổi Luật Đất đai năm 2003 theo hướng: Tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để sử dụng có hiệu quả; giao đất cho hộ gia đình sử dụng lâu dài; mở rộng hạn mức sử dụng đất, thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai; công nhận quyền sử dụng đất được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất, kinh doanh; ban hành chính sách định giá nhằm bảo đảm hài hòa quyền lợi của người sử dụng đất, của nhà đầu tư và của Nhà nước trong quá trình giải tỏa, thu hồi đất.

Để nâng cao việc hỗ trợ cho nông dân, cần tăng cường phân cấp thu chi ngân sách cho các địa phương, bao gồm cả cấp huyện và xã; tăng cường hỗ trợ nông dân sản xuất nông sản hàng hoá; tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi và khuyến khích các ngân hàng, định chế tài chính cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân . Có cơ chế, chính sách đủ mạnh khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, kể cả huy động vốn ODA và FDI; có biện pháp bảo vệ thị trường nội địa, phát triển thị trường xuất khẩu nông sản phù hợp với luật pháp quốc tế; nghiên cứu ban hành chính sách giá cả nông sản, nhất là giá lúa phù hợp trong quan hệ so sánh với hàng công nghiệp, nhằm bảo đảm quyền lợi của người sản xuất nông nghiệp, giải quyết hài hòa lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng.

Cùng với việc tăng cường hệ thống dự trữ quốc gia, trước hết là lương thực, thực hiện chương trình an sinh xã hội toàn diện đối với nông dân và cư dân nông thôn, từ lao động - việc làm đến bảo hiểm, bảo trợ xã hội và các dịch vụ công ích nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân và cư dân nông thôn.

Năm là, bảo đảm quyền lợi của nông dân 

- Bảo đảm thực hiện sự bình đẳng trong việc thụ hưởng quyền lợi của nông dân

Để khắc phục sự bất bình đẳng nhất định trong việc thụ hưởng quyền của nông dân, chẳng hạn so với cư dân đô thị, cách thức cơ bản là hiện thực hóa các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Theo Điều 17 Hiến pháp năm 2013, mọi người, trong đó có nông dân, đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

- Bảo đảm thực hiện quyền có tính đặc thù của một số nhóm nông dân

+ Nhóm người cao tuổi: Người cao tuổi được bảo đảm các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, đi lại, chăm sóc sức khoẻ; quyết định sống chung với con, cháu hoặc sống riêng theo ý muốn; được ưu tiên khi sử dụng các dịch vụ theo quy định của pháp luật; được tạo điều kiện tham gia hoạt động văn hoá, giáo dục, thể dục, thể thao, giải trí, du lịch và nghỉ ngơi; được tạo điều kiện làm việc phù hợp với sức khỏe, nghề nghiệp và các điều kiện khác để phát huy vai trò người cao tuổi; được miễn các khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội, trừ trường hợp tự nguyện đóng góp; được ưu tiên nhận tiền, hiện vật cứu trợ, chăm sóc sức khỏe và chỗ ở nhằm khắc phục khó khăn ban đầu khi gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc rủi ro bất khả kháng khác; được tham gia Hội người cao tuổi Việt Nam theo quy định của Điều lệ Hội;...

Người cao tuổi có các nghĩa vụ: Nêu gương sáng về phẩm chất đạo đức, lối sống mẫu mực; giáo dục thế hệ trẻ giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; gương mẫu chấp hành và vận động gia đình, cộng đồng chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; truyền đạt kinh nghiệm quý cho thế hệ sau; và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

+ Nhóm người khuyết tật: được bảo đảm các quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; được miễn hoặc giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội; được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật và các quyền khác theo quy định của pháp luật.

+ Nhóm phụ nữ: được bảo đảm tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa như nam giới. Tính đặc thù trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ là trách nhiệm của xã hội trong việc thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy các vấn đề liên quan đến cuộc sống xã hội cũng như cuộc sống riêng tư của họ.

+ Nhóm người nghèo: có quyền bình đẳng trong việc thụ hưởng các quyền công dân, như: có quyền sống, quyền an toàn cá nhân; có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp; có quyền được trả công ngang nhau; có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng và hợp lý; có quyền nghỉ ngơi và thư giãn; có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ đề bảo đảm sức khỏe và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, cũng như có quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tàn phế, góa bụa, già nua;.../.