Kích cầu kinh tế của các nước ASEAN

Phương Dung - Hồng Vân
10:39, ngày 05-04-2011

TCCS - Kích cầu là một trong những biện pháp thường được Chính phủ các nước sử dụng khi kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ hoặc suy thoái cần được vực dậy. Những kinh nghiệm trong việc kích cầu kinh tế của các nước ASEAN sẽ là hữu ích, đáng để Việt Nam tham khảo khi hoạch định các chính sách phát triển kinh tế của đất nước.

1. Sự cần thiết phải kích cầu kinh tế của các nước ASEAN

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã tác động xấu đến kinh tế các nước ASEAN: thất nghiệp leo thang, đời sống người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng, sản xuất đình đốn, lạm phát gia tăng... buộc chính phủ các nước này phải chủ động can thiệp thông qua các gói kích cầu nhằm vực dậy nền kinh tế dưới tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu.

Kích cầu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ (hay còn gọi là tiêu dùng công cộng) để kích thích tăng trưởng kinh tế. Biện pháp kích cầu có thể là giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc cả hai.

Sở dĩ chính phủ các nước ASEAN phải sử dụng biện pháp kích cầu bởi những nguyên nhân chính sau:

Thứ nhất, do tăng trưởng kinh tế giảm sút. Tác động của suy thoái kinh tế thế giới (trực tiếp và gián tiếp) đã ảnh hưởng mạnh tới tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Nam Á. Mức tăng trưởng chung của 5 nền kinh tế ASEAN bao gồm Việt Nam, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Phi-lip-pin chỉ đạt 4,7% năm 2008, thấp hơn 3,2 % so với năm 2007 và tồi tệ hơn khi tụt xuống còn 1,7% năm 2009. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nếu tỉ lệ tăng trưởng ở các nước đang phát triển giảm 1% thì sẽ có thêm 20 triệu người lâm vào cảnh nghèo đói.

Thứ hai, xuất khẩu giảm sút và hoạt động sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp. Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của châu Á nói chung và các nước ASEAN nói riêng. Nhưng, khi kinh tế thế giới bị khủng khoảng, hệ thống tài chính gần như đóng băng, nhu cầu bị giảm sút đã ảnh hưởng tới hầu hết các nước ASEAN - những nước có chính sách phát triển dựa vào xuất khẩu và có độ mở của nền kinh tế cao.

Khủng hoảng tài chính xảy ra ngay sau cuộc khủng hoảng lương thực đã tác động xấu thêm đến nông nghiệp các nước ASEAN khiến cho các thị trường tín dụng nông nghiệp bị thắt chặt hơn và vốn đầu tư cho nông nghiệp bị hạn chế. Đầu tư cho hạ tầng nông thôn và nghiên cứu nông nghiệp thấp, giá vật tư nông nghiệp tăng cao, vì vậy, sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp.

Thứ ba, đầu tư giảm, viện trợ chính thức và nguồn kiều hối đều giảm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN. Tính theo tỉ lệ của tổng vốn đầu tư cố định, FDI chiếm 60% tại Xin-ga-po, 52% tại Cam-pu-chia và 25% tại Việt Nam. Tuy nhiên, khi khủng khoảng xảy ra thì các nước này khó tránh khỏi việc FDI bị giảm.

Kiều hối gửi từ nước ngoài về của lao động di cư vốn được xem là nguồn thu nhập và ngoại tệ quan trọng cho nhiều nước ASEAN. Viện trợ chính thức ảnh hưởng bởi chính sách thắt chặt ngân sách của các nước phát triển. Tất cả điều này làm tăng thêm sức ép cho chính phủ các nước ASEAN trong việc phân bổ ngân sách cho phát triển kinh tế và giảm nghèo.

Thứ tư, lạm phát leo thang và gia tăng thất nghiệp. Cuộc khủng hoảng lương thực và năng lượng trong nửa đầu năm 2008 đã gây sức ép lên giá cả thị trường hàng hóa, khiến lạm phát tăng cao. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), tỉ lệ thất nghiệp của ASEAN lên tới 6,2% năm 2009 so với mức 5,7% năm 2007; nghĩa là có thêm từ 2-3 triệu lao động bị gạt ra ngoài thị trường lao động.

Trước thực tiễn đó, buộc các nước ASEAN phải áp dụng các gói kích câù nhằm vực lại nền kinh tế đang suy thoái.

2. Một số giải pháp kích cầu của các nước ASEAN

Mục tiêu chính của các gói kích cầu là làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm. Các gói giải pháp cứu trợ và ngăn chặn suy giảm kinh tế của các nước ASEAN cũng như các nước đang phát triển khác mang một số đặc điểm là: Một là, các gói giải cứu, ngăn chặn suy giảm và kích thích kinh tế được thiết kế tùy theo đặc điểm nền kinh tế mỗi nước; Hai là, tùy theo hoàn cảnh từng nước, các gói kích cầu có thể chỉ bao gồm các công cụ chính sách tài khóa hoặc cả các công cụ của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ; Ba là, giải pháp kích cầu của các nước có thể chia thành bốn nhóm chính: kích thích tiêu dùng; kích thích đầu tư của doanh nghiệp; kích thích thông qua đầu tư công và nhóm biện pháp phụ trợ.

* Kích cầu tiêu dùng. Để kích cầu tiêu dùng, chính phủ hỗ trợ trực tiếp tiền cho dân để tăng sức mua hoặc chuyển tiền cho doanh nghiệp, ngân hàng… Các nước đang phát triển với điều kiện kinh tế eo hẹp không thể áp dụng cách thức này do tiềm lực còn hạn chế. Vì vậy, phải dùng hình thức khác như bù lãi suất, cho vay không lãi, hỗ trợ mua bảo hiểm y tế…

Chính phủ Thái Lan thực hiện chính sách kích cầu hai giai đoạn với toàn bộ số tiền bơm vào nền kinh tế và kích cầu chủ yếu từ tài khoản vay nước ngoài. Giai đoạn một, kế hoạch cứu trợ gồm 3,35 tỉ USD, nhắm vào các mục tiêu: phát tiền mặt cho người nghèo; giảm thuế cá nhân; tăng số học sinh được miễn học phí; trợ giá tiền điện, nước và vé tàu xe đi lại cho dân. Một khi dân chúng có tiền chi tiêu thì nền kinh tế sẽ có hiệu ứng lan tỏa, từ bán lẻ, phân phối, du lịch cho tới sản xuất, chế tạo… Giai đoạn hai, bắt đầu từ tháng 3 năm 2009, Chính phủ Thái Lan khuyến khích người dân tiêu dùng bằng cách trợ cấp 2000 Baht/tháng cho viên chức nhà nước có thu nhập dưới 15.000 baht/tháng (khoảng 7,5 triệu đồng). Khoảng 9 triệu người đã nhận được khoản trợ cấp kích cầu tiêu dùng này. Nhờ chính sách kích cầu nhanh chóng (từ tháng 12-2008) mà người dân Thái Lan không hốt hoảng, bảo đảm tiêu dùng nội địa, giảm thiểu tác động của suy giảm kinh tế.

Năm 2009, để hỗ trợ người dân trong điều kiện suy giảm kinh tế, Ma-lay-xi-a cũng đã chi 27,9 tỉ ringgit để trợ giá một số hàng hóa như xăng, diesel, gas dùng để nấu ăn, lúa mỳ, bánh mỳ, bột mỳ, đường, gạo, sách vở học sinh, học bổng, đào tạo, y tế, phúc lợi xã hội và lệ phí giao thông…

Xing-ga-po đưa ra gói kích thích kinh tế 13,8 tỉ USD (năm 2009) trong đó có chương trình tín dụng việc làm bằng cách hỗ trợ tiền mặt đối với các chủ sử dụng lao động để giúp họ trang trải một phần chi phí lương và tránh sa thải lao động; giảm 20% thuế thu nhập cá nhân đến hạn, đối với lao động khó khăn trợ cấp thêm 300-500 SGD/người/tháng…

* Kích cầu đầu tư. Trong bối cảnh suy giảm động lực phát triển từ bên ngoài, khuyến khích hoạt động đầu tư và tiêu dùng có ý nghĩa lớn nhằm tạo động lực tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Xing-ga-po cam kết giành 1,5 tỉ USD để giúp các doanh nghiệp nhỏ được tiếp cận tín dụng trong bối cảnh kinh tế chững lại để khuyến khích sản xuất, xuất khẩu. In-đô-nê-xi-a nỗ lực tìm kiếm cơ hội xuất khẩu và đầu tư, phát triển kinh tế trong nước nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế; sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước, tăng cường hợp tác giữa chính phủ, ngân hàng trung ương với các ngân hàng và khu vực tư nhân… Chính phủ đẩy nhanh tốc độ giải ngân 25,9 nghìn tỉ rupi trong khoản 290 nghìn tỉ rupi dành cho mạng lưới an sinh xã hội. Với gói kích thích trị giá 73.300 tỷ rupi (tương đương 6,3 tỉ USD) năm 2009, Chính phủ In-đô-nê- xi-a dành 6.500 tỷ rupi ưu tiên cho các doanh nghiệp tăng sản xuất, giảm chi phí và tránh sa thải công nhân. Thái Lan vay 2 tỉ USD từ các quỹ và các tổ chức tín dụng quốc tế góp phần vực dậy nền kinh tế. Bên cạnh hoạt động khuyến khích xuất khẩu, các nước ASEAN cũng tăng cường hội nhập kinh tế nội khối và coi tiêu thụ nội địa làm trụ cột của sự phát triển. Nhờ các khoản kích thích tài chính lớn và tình trạng tài chính của khu vực tư nhân tốt nên tiêu dùng nội địa đã tăng 4% - 5% (năm 2009) và đạt 7% (năm 2010).

Tuy nhiên, để hoạt động kích cầu đầu tư và tiêu dùng có hiệu quả cần chú ý đến những vấn đề chính sau: Một là, tập trung kích cầu đầu tư vào các dự án sắp hoàn thành, đưa nhanh vào sử dụng các dự án có dung lượng và triển vọng thị trường tiêu thụ tốt, các dự án góp phần trực tiếp duy trì và mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh cần thiết của doanh nghiệp và nền kinh tế. Ưu tiên các dự án có khả năng tạo được thị trường tiêu thụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dự án kết hợp phát triển kinh tế - xã hội - môi trường. Hai là, để kích cầu tiêu dùng cần giảm giá hàng tiêu dùng, giảm lãi suất, điều chỉnh tăng lương, giảm thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp, tăng cho vay tiêu dùng, đồng thời giãn, khoanh nợ và tăng cường hỗ trợ an sinh xã hội. Hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, người có thu nhập thấp, đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng núi khó khăn, thiên tai, bệnh dịch… Đơn giản hóa các thủ tục trợ cấp cho người nghèo.

Trong hoạt động kích cầu đầu tư, cần khuyến khích các thành phần kinh tế, doanh nghiệp tham gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư vào các lĩnh vực như xây dựng kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, kho cảng, sân bay, đường bộ, điện, xi- măng… Bên cạnh đó tập trung đầu tư vào nhà ở, đặc biệt là nhà ở cho người thu nhập thấp. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư theo các hình thức khác nhau. Đầu tư vào ngành điện không chỉ theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (Built-Operation-Transfer, BOT) mà cả hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao (Built-Transfer, BT). Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào các dự án, kể cả bất động sản. Kích cầu đầu tư đúng thì sẽ kích cầu được tiêu dùng. Giảm thuế, giảm lãi suất, doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận nhiều hơn, tiền chi trả cho người lao động sẽ cao hơn. Khi có thu nhập người lao động sẽ chi tiêu nhiều. Mục tiêu kích cầu tiêu dùng sẽ đạt được.

* Kích cầu thông qua đầu tư công. Yếu tố quan trọng để đạt được mức độ tăng trưởng kinh tế khu vực cao và thúc đẩy thương mại nội khối là kết nối tốt hơn về kết cấu hạ tầng trong khu vực như đường giao thông, các bến cảng, sân bay và các liên kết đường sắt. Ma-lay-xi-a đã đưa ra hai gói kích cầu kinh tế tập trung cho đầu tư công: Lần thứ nhất là 1,9 tỉ USD, trong đó chi cho nâng cấp và sửa chữa tiện nghi công cộng, giao thông nông thôn, cảnh sát và lực lượng vũ trang là 1,5 triệu ringgit; chi 1,4 triệu ringgit cho nhà ở chi phí xây dựng thấp và mức chi trả trung bình; chi 0,5 triệu ringgit cho nâng cấp và duy trì các phương tiện giao thông công cộng; chi 0,5 triệu ringgit thực hiện truy cập Internet băng thông rộng… Lần thứ hai là 16,2 tỉ USD trong đó chi 19 tỉ ringgit xây dựng năng lượng cho tương lai. Trong dự án kết cấu hạ tầng “Thái Lan vững mạnh 2012” với tổng chi là 42 tỉ USD thì chính phủ Thái Lan dành 73% trong số đó (tương đương 30,6 tỉ USD) chi cho đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, truyền thông và năng lượng, 15% (tương đương 6,3 tỉ USD) cải thiện hệ thống cấp nước và thủy lợi nông nghiệp. In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-pin ... cũng có những biện pháp tương tự để cải thiện kết cấu hạ tầng giúp kết nối tốt hơn.

* Các nhóm biện pháp hỗ trợ khác. Bên cạnh biện pháp kích cầu tiêu dùng nội địa như đã nói ở trên, các nước ASEAN còn chú trọng các giải pháp xúc tiến xuất khẩu nhằm vực lại xu hướng sản xuất hướng vào xuất khẩu.

Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, Bộ Thương mại Thái Lan đã ưu tiên cho 4 kế hoạch phát triển ngành xuất khẩu: Thứ nhất, bảo đảm giữ được những bạn hàng lớn của mình đồng thời tăng cơ hội tiếp thị các sản phẩm mới; Thứ hai, đưa hàng hóa lương thực thực phẩm của Thái Lan đến với toàn cầu. Với kế hoạch này, Thái Lan thúc đẩy phát triển các nhà hàng của mình tại nước ngoài, bằng cách phổ biến nghệ thuật ẩm thực của Thái Lan ra thế giới và thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản; Thứ ba, phát triển các thị trường xuất khẩu mới ở châu Á, Trung Đông, Ốt-xtrây-li-a, châu Phi và châu Mỹ La-tinh nhằm thay thế những thị trường có nhu cầu nhập khẩu đang bị thu hẹp như Mỹ, Nhật Bản và EU; Thứ tư, trợ giúp các nhà xuất khẩu khi thiếu các đơn hàng như tổ chức triển lãm, quảng bá thương hiệu…

Ngoài hoạt động xuất khẩu, do ngành du lịch đóng góp tơí khoảng 6% tổng GDP hàng năm của Thái Lan nên nước này đã có những chiến dịch, như: “Đem đồng baht tới Thái Lan”, “Một giá cho tất cả các địa điểm” để kích cầu du lịch nội địa và nhằm quảng bá Thái Lan như là một điểm đến hấp dẫn, với mục tiêu thu hút thêm khách du lịch từ các thị trường khác.

Đối với Xing-ga-po tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào xuất khẩu và đầu tư nên Chính phủ Xing-ga-po đã thực hiện một số giải pháp, như: giữ việc làm cho người lao động bằng chương trình nâng cao kỹ năng lao động và tín dụng cho doanh nghiệp địa phương; tăng niềm tin vào hệ thống tài chính bằng chương trình bảo đảm tiền gửi; tăng cường thực hiện các dự án công (4.7 tỉ đô- la Xing-ga-po); đối với tài khóa, ưu tiên cho chương trình việc làm bằng việc hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp như giảm tiền thuê nhà, giảm thuế..

Gói kích cầu của Xing-ga-po tập trung đầu tư vào 4 vấn đề: giáo dục - đào tạo, giải quyết việc làm, hỗ trợ tài chính và giúp đỡ người khó khăn.

Tóm lại, nhờ những cải tiến trong chính sách cơ cấu kinh tế vĩ mô, sự chặt chẽ hơn trong cơ chế giám sát hệ thống ngân hàng, sự điều hành doanh nghiệp tốt hơn và quản lý rủi ro hiệu quả hơn trong khu vực tư nhân đã giúp các nước Đông Nam Á chống đỡ được phần lớn tác động của khủng hoảng toàn cầu. Kinh nghiệm của các nước ASEAN rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đó là: 1) Kịp thời đưa ra các gói kích cầu thông qua chính sách tài chính linh hoạt; 2) Khuyến khích đầu tư, tiêu dùng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, xuất khẩu; 3) Bảo đảm an sinh xã hội, tăng trợ cấp phát triển nông nghiệp và giải quyết đời sống cho người thu nhập thấp; 4) Gia tăng hợp tác khu vực và quốc tế.

Tính hiệu quả và kịp thời của các gói kích cầu đã tạo ra sự phục hồi mạnh mẽ, giúp các nước ASEAN vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tốt hơn hơn mong đợi. Năm 2010, tăng trưởng GDP của các nước ASEAN là 6,0% (In-đô-nê-xi-a); 6,8% (Việt Nam); 7,2% (Ma-lay-xi-a); 7,3% (Phi-lip-pin) và 7,8% (Thái Lan). Các gói kích cầu kinh tế có tác dụng như chiếc phao cứu sinh làm gia tăng lòng tin của các doanh nghiệp, các ngân hàng và nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào trách nhiệm của chính phủ trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, cũng như tin vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư trong nước. Gói kích cầu trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó giảm bớt các chi phí kinh doanh, góp phần giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ kịp thời của gói kích cầu đã có thêm cơ hội giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và bảo đảm ổn định xã hội. Bên cạnh đó, gói kích cầu còn trực tiếp góp phần gia tăng các hoạt động đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng và động lực của sự phát triển xã hội cả hiện tại và tương lai./.