Một số mô hình đào tạo nghề cho lao động nông thôn
TCCS - Thử nghiệm các mô hình dạy nghề khác nhau là cần thiết, trước khi nhân rộng, nhất là đối với đối tượng lao động có đặc thù riêng như lao động nông thôn.
Đào tạo lao động nông thôn - nhu cầu đang bức thiết
Hiện nay, trong số lực lượng lao động nông thôn (34,8 triệu người), lao động làm việc trong nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp là 21,7 triệu người, chiếm trên 62%, còn lại là lao động phi nông nghiệp.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đòi hỏi phải sử dụng nhiều đất nông nghiệp để xây dựng các hạ tầng công nghiệp và đô thị, khiến diện tích đất canh tác bị thu hẹp đáng kể. Điều này dẫn đến số lượng lao động bình quân trên một diện tích canh tác tăng lên. Hiện tượng đất chật, người đông đang là thực trạng chung của các vùng nông thôn nước ta, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Hồng và các địa phương có tốc độ đô thị hóa cao. Một lượng lao động nông nghiệp ”dư thừa” khá lớn. Một số buộc phải chuyển sang các nghề khác tại nông thôn hoặc trở thành lao động công nghiệp.
Mặt khác, để bảo đảm an ninh lương thực, nuôi sống 99 triệu dân vào năm 2020 và giữ vững vị trí “cường quốc” về xuất khẩu lương thực và hàng nông sản, Việt Nam phải áp dụng mạnh mẽ tiến bộ của khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp để tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa. Điều này đòi hỏi người nông dân phải trở thành các “chuyên gia” trong lĩnh vực nông nghiệp, phải trở thành những nông dân hiện đại. Trong khi đó hiện tại, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề còn rất thấp, thực sự là trở ngại cho quá trình này.
Những yếu tố và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nêu trên tạo ra sự chuyển dịch rất lớn đối với lao động nông thôn, từ dịch chuyển kỹ năng đến dịch chuyển nghề nghiệp, dịch chuyển nơi sinh sống:
- Chuyển dịch kỹ năng: Từ nông dân sản xuất truyền thống sang nông dân sản xuất hiện đại.
- Chuyển dịch nghề nghiệp: Từ lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp ở nông thôn.
- Chuyển dịch nghề nghiệp và nơi làm việc: Từ lao động nông nghiệp hoặc lao động phi nông nghiệp ở nông thôn trở thành lao động công nghiệp tại các khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nông thôn.
- Chuyển dịch nghề nghiệp và nơi sinh sống: Từ lao động nông thôn chuyển thành lao động công nghiệp, dịch vụ ở các đô thị (mới và cũ).
- Tạo ra một dòng di dân quốc tế mới, thông qua xuất khẩu lao động hoặc ra định cư ở nước ngoài với người thân.
Từ các xu hướng trên cho thấy, để đạt được mục tiêu đề ra, nhu cầu về đào tạo nói chung và đào tạo nghề cho lao động nông thôn là rất lớn.
Ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt ”Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, theo đó, tập trung đào tạo nghề cho các nhóm đối tượng sau:
(1) Nhóm lao động là nông dân được đào tạo để trở thành những nông dân làm nông nghiệp hiện đại;
(2) Nhóm lao động là nông dân được đào tạo để chuyển nghề thành lao động phi nông nghiệp tại nông thôn hoặc trở thành công nhân công nghiệp;
(3) Nhóm lao động là nông dân được đào tạo để phục vụ xuất khẩu lao động;
(4) Nhóm lao động là nông dân được đào tạo để trở thành các nhà quản lý sản xuất ở nông thôn hoặc trở thành các cán bộ thôn, xã.
Một số mô hình đào tạo phù hợp
Do tính đặc thù của lao động nông thôn, việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải có những cách thức tổ chức phù hợp với từng nhóm đối tượng. Để xây dựng được các mô hình dạy nghề phù hợp, cần triển khai những hoạt động như:
- Trước hết, cần điều tra, khảo sát nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo nghề trong các ngành kinh tế, vùng kinh tế và từng địa phương. Việc “nắm” nhu cầu phải đi trước một bước và triển khai thường xuyên với quy mô và mức độ khác nhau, để kịp thời xác định những nghề mới, với quy mô và trình độ phù hợp. Nhu cầu sử dụng lao động chính là ”đầu ra” của đào tạo.
- Thứ hai, đồng thời phải khảo sát nhu cầu học nghề của đối tượng, nhằm phân nhóm để đào tạo phù hợp với đặc thù về tâm lý sản xuất ở nông thôn.
- Thứ ba, đối với nhóm đối tượng nông dân đào tạo để có thể làm nông nghiệp hiện đại, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, các khóa đào tạo cần gắn với việc vừa học, vừa làm của họ, hoặc lựa chọn thời gian nông nhàn của người dân.
Do tính đa dạng của vật nuôi, cây trồng nông nghiệp, các khóa học nên được tổ chức gắn với thời kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng một cách linh hoạt và khoa học. Vừa qua, Tổng cục Dạy nghề đã triển khai thí điểm dạy nghề cho lao động vùng chuyên canh thuốc lá theo hướng này. Khóa học đạt được kết quả rất khả quan, năng suất lao động và hiệu quả lao động của người nông dân được tăng lên rõ rệt.
- Thứ tư, mục tiêu của dạy nghề ở nông thôn là tạo một nghề để tự tạo việc làm trong nông nghiệp (tăng năng suất lao động) hoặc tìm được việc làm phi nông nghiệp (ở nông thôn hoặc ngoài nông thôn). Nói cách khác, dạy nghề nhằm giải quyết việc làm cho người lao động. Đây là vấn đề cốt lõi, nhất là đối với nhóm lao động cần phải chuyển sang làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp, công nghiệp. Nếu không được như vậy người nông dân sẽ không tham gia học nghề.
Dạy nghề cho lao động nông thôn có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức: tại các cơ sở dạy nghề; theo đơn đặt hàng của các tập đoàn, tổng công ty; lưu động (tại xã, thôn, bản); tại doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ; gắn với các vùng chuyên canh, làng nghề... Cách thức đào tạo cũng cần phải đa dạng hóa, phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện của từng vùng, miền..., như đào tạo tập trung tại cơ sở dạy nghề đối với những nông dân chuyển đổi nghể nghiệp (trung tâm dạy nghề, trường trung cấp, cao đẳng nghề, các trường khác có tham gia dạy nghề...); đào tạo nghề lưu động cho nông dân làm nông dân hiện đại tại các làng, xã, thôn, bản; dạy nghề tại nơi sản xuất, tại hiện trường theo kiểu FFS (Farmer Fiel Schools)...
Trước mắt cần tổ chức đào tạo thí điểm cho các nhóm đối tượng, với hình thức và phương thức đào tạo khác nhau để tìm ra được những mô hình đào tạo phù hợp nhất đối với các nhóm đối tượng lao động nông thôn. Từ đó có thể nhân rộng ra tất cả các vùng, miền trong cả nước. Có thể có một số mô hình sau:
Đối với lao động trong các vùng chuyên canh:
- Mô hình 1: Cơ quan nhà nước (Tổng cục Dạy nghề, các bộ có liên quan, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội...) phối hợp với các tổng công ty có các vùng chuyên canh (như thuốc lá, chè, cao-su, cà-phê...), thông qua các trung tâm kỹ thuật của các tổng công ty, trực tiếp tổ chức đào tạo các khóa đào tạo cho nông dân các vùng chuyên canh .
- Mô hình 2: Cơ quan nhà nước phối hợp với các cơ sở dạy nghề (trường/trung tâm dạy nghề/trung tâm giáo dục thường xuyên) trên địa bàn tổ chức dạy nghề cho các nghề chuyên canh. Trong quá trình thực hiện có sự tham gia của các doanh nghiệp chuyên ngành.
Đối với lao động thuần nông:
- Mô hình 1: Cơ quan nhà nước phối hợp với các cơ sở đào tạo trên địa bàn tổ chức dạy các nghề cho lao động nông nghiệp. Trong quá trình thực hiện có sự tham gia của các hội đoàn thể ở địa phương.
- Mô hình 2: Cơ quan nhà nước phối hợp với hội đoàn thể, hội nghề nghiệp ở địa phương (VAC Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ...) tổ chức dạy nghề cho các hội viên.
- Mô hình 3: Cơ quan nhà nước phối hợp với ủy ban nhân dân (UBND) các huyện tổ chức dạy nghề cho bà con nông dân. Trong mô hình này, UBDN huyện có vai trò như ”chủ thầu”, chịu trách nhiệm trước Tổng cục Dạy nghề hoặc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức dạy nghề. Trong quá trình thực hiện có sự tham gia của các cơ sở dạy nghề, đoàn thể, hội nghề nghiệp ở địa phương .
Đối với lao động trong các làng nghề:
- Mô hình 1: Cơ quan nhà nước phối hợp với các cơ sở dạy nghề chuyên ngành (của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) trực tiếp dạy nghề cho các lao động trong làng nghề. Trong quá trình thực hiện có sự tham gia của các nghệ nhân của làng nghề.
- Mô hình 2: Cơ quan nhà nước phối hợp với từng làng nghề để dạy nghề cho bà con. Người dạy là nghệ nhân, người có kỹ năng nghề cao trực tiếp truyền nghề. Trong quá trình thực hiện có sự tham gia của các giáo viên của các cơ sở dạy nghề chuyên ngành.
- Mô hình 3: Cơ quan nhà nước phối hợp với các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tổ chức dạy nghề cho lao động trong các làng nghề. Trong quá trình thực hiện, có sự tham gia của các nghệ nhân làng nghề.
Đối với lao động chuyển đổi nghề:
- Mô hình dạy nghề ngắn hạn: cơ quan nhà nước phối hợp với các cơ sở dạy nghề ở địa phương để dạy nghề phù hợp với nhu cầu của người lao động. Trong quá trình thực hiện có sự tham gia của UBND huyện, các trung tâm giới thiệu việc làm.
- Đối với dạy nghề dài hạn:
- Mô hình 1: Cơ quan nhà nước phối hợp với các trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề phù hợp trên địa bàn (hoặc lân cận) tổ chức dạy nghề với những nghề các doanh nghiệp đăng ký nhu cầu. Trong quá trình thực hiện có sự phối hợp của các doanh nghiệp và giám sát của địa phương.
- Mô hình 2: Cơ quan nhà nước phối hợp hoặc đặt hàng với các doanh nghiệp (hoặc trường trong doanh nghiệp) để dạy nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp.
Có thể có nhiều mô hình tổ chức dạy nghề khác, trong quá trình thực hiện cần có sự đánh giá kết quả để điều chỉnh mô hình và nhân rộng những mô hình có hiệu quả. Trước mắt, theo chúng tôi, cần triển khai một số mô hình với một số nhóm đối tượng ở những địa bàn điển hình để rút kinh nghiệm trước khi triển khai rộng./.
Việt Nam chuyển giao chức Chủ tịch CPR cho In-đô-nê-xia  (16/12/2010)
Quảng Nam nâng cao chất lượng dạy nghề giải quyết tốt việc làm trước hết cho nông dân  (16/12/2010)
Việt Nam thuộc nhóm các nước có mức tăng thu nhập của công nhân cao nhất châu Á năm 2011  (16/12/2010)
Các Ngân hàng cam kết đồng thuận trần lãi suất huy động là 14%/năm  (16/12/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm