Quảng Nam nâng cao chất lượng dạy nghề giải quyết tốt việc làm trước hết cho nông dân
TCCS - Dạy nghề là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp đáp ứng yêu cầu của sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Những năm qua, công tác dạy nghề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo đầu tư phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực của thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động, theo hướng cập nhật hiệu quả những thay đổi nhanh chóng của kỹ thuật công nghệ và nhu cầu đa dạng của người lao động học nghề, lập nghiệp.
Đối với tỉnh Quảng Nam, công tác dạy nghề được tỉnh xác định là khâu đột phá để phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam xác định: "Phát triển hệ thống đào tạo nghề. Khẩn trương đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ lao động được đào tạo đạt 40% lao động xã hội. Có chính sách hỗ trợ lao động nông thôn, miền núi học nghề và chuyển đổi nghề...".
Trên cơ sở xác định đó, những năm qua, tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt công tác dạy nghề trên địa bàn, đem lại những kết quả khá ấn tượng.
Tỉnh xây dựng và ban hành tương đối đầy đủ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản quy định, hướng dẫn về lĩnh vực dạy nghề, trong đó có Đề án tiếp tục đổi mới và phát triển dạy nghề tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2008 - 2015. Đề án này được HĐND tỉnh thông qua và UBND tỉnh quyết định ban hành vào tháng 6-2008, xác định cụ thể những định hướng phát triển, những cơ chế chính sách, nguồn lực đầu tư cho dạy nghề... qua đó tạo cơ sở, điều kiện vững chắc và hướng đi phù hợp cho dạy nghề phát triển; đồng thời tạo một bước chuyển mới về nhận thức trong các cấp, các ngành và nhân dân đối với dạy nghề, học nghề.
Quảng Nam có ưu thế là hệ thống cơ sở dạy nghề phát triển nhanh và phù hợp với quy hoạch được phê duyệt. Đến nay, tỉnh có 42 cơ sở dạy nghề, phân bố đều theo cơ cấu khu vực (trung tâm, đồng bằng, miền núi...), bảo đảm thuận lợi cho người lao động tham gia học nghề cũng như cung ứng nguồn lao động kỹ thuật cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề của các cơ sở dạy nghề ngày càng được tăng cường đầu tư. Đặc biệt, 4 cơ sở dạy nghề trọng điểm của tỉnh gồm: Trường Trung cấp nghề tỉnh, Trường Trung cấp nghề Bắc Quảng Nam, Trường Trung cấp nghề Nam Quảng Nam, Trường Trung cấp nghề Thanh niên Dân tộc - Miền núi Quảng Nam, được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia và ngân sách tỉnh. Các trường này cơ bản bảo đảm năng lực dạy nghề trình độ trung cấp và sơ cấp. Việc thực hiện chủ trương xã hội hóa trong dạy nghề bước đầu thu được đạt kết quả nhất định: huy động các cá nhân và doanh nghiệp (tuy chưa nhiều) tham gia dạy nghề, 16/42 cơ sở dạy nghề thuộc loại hình tư thục (trong đó có Trường Cao đẳng nghề Chu Lai - Trường Hải trực thuộc Công ty cổ phần ô-tô Trường Hải, là trường cao đẳng nghề duy nhất hiện nay trên địa bàn tỉnh); đồng thời cũng đã huy động được một số tổ chức quốc tế hỗ trợ đầu tư cho công tác dạy nghề của tỉnh.
Trên cơ sở đầu tư của tỉnh, của các đơn vị giáo dục - đào tạo nghề, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề của tỉnh phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Tổng số cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề của tỉnh hiện nay là 1.034 người (tăng 361 người so với năm 2005), trong đó tổng số giáo viên dạy nghề là 537 người (tăng 196 người so với năm 2005). Số giáo viên dạy nghề đạt chuẩn chiếm 84,2%, có 79 giáo viên có trình độ sau đại học (chiếm 14,71%).
Nhờ các yếu tố trên, quy mô tuyển sinh dạy nghề đã tăng nhanh, năm 2009 đạt 32.850 người, tăng 1,83 lần so với năm 2005), năm 2010 ước đạt 35.900 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của tỉnh năm 2009 đạt 25% (tăng 11% so với năm 2005), năm 2010 ước đạt 30%.
Đặc biệt, trong nhiều năm qua, tỉnh triển khai thực hiện thành công các chương trình, kế hoạch hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số, lao động là người tàn tật và lao động thuộc hộ nghèo với sự hỗ trợ kinh phí của Trung ương (Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo) và ngân sách của tỉnh. Kết quả thực hiện các chương trình này của tỉnh Quảng Nam đã được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng cục Dạy nghề đánh giá rất cao. Thông qua các chương trình này, các làng nghề truyền thống đã được khôi phục và phát triển mạnh; phần lớn lao động thuộc diện mất đất sản xuất đã được đào tạo chuyển đổi nghề; nhiều mô hình đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm đã được thực hiện rất hiệu quả. Tất cả các học viên tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề này đều được giải quyết việc làm hoặc tự tạo được việc làm, góp phần tích cực trong việc ổn định cuộc sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tích cực (giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động phi nông nghiệp).
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác dạy nghề của tỉnh trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, bất cập:
1. Hệ thống cơ sở dạy nghề của tỉnh tuy đã được phát triển mở rộng so với trước đây, nhưng năng lực của các cơ sở dạy nghề không đồng đều, chưa đáp ứng đầy đủ được yêu cầu đào tạo nghề theo 3 cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Số lượng người học nghề trình độ cao đẳng nghề và trung cấp nghề còn rất hạn chế, quy mô tuyển sinh dạy nghề trình độ trung cấp của các trường hiện nay còn thấp, các cơ sở dạy nghề hiện nay chưa thực sự thu hút mạnh các đối tượng là học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông.
2. Việc đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề trọng điểm còn chậm do thiếu vốn đầu tư. Công tác xã hội hóa trong dạy nghề chưa được đẩy mạnh.
3. Chưa đa dạng hóa các hoại hình đào tạo nghề; mới chỉ chú trọng đến hình thức dạy nghề chính quy tập trung và dạy nghề thường xuyên dưới 3 tháng, chưa phát triển mạnh loại hình dạy nghề chính quy theo hình thức vừa học vừa làm; hình thức dạy nghề tại doanh nghiệp chưa phát triển mạnh.
4. Ngành nghề đào tạo đã được mở rộng nhưng chưa thực sự đầu tư có chiều sâu cho một số ngành nghề có kỹ thuật công nghệ cao để đón đầu phục vụ cho yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xuất khẩu lao động như: nghề bảo dưỡng, sửa chữa lắp ráp các thiết bị chính xác, hóa dầu, cơ khí chế tạo máy, các nghề thuộc lĩnh vực tự động hóa, công nghệ du lịch...
5. Những nghề truyền thống về thủ công mỹ nghệ như: mộc mỹ nghệ, khảm trai, khắc chạm, gia công đá quý, thêu ren và chế biến thủy sản, ươm tơ dệt lụa tuy đã được khôi phục nhưng chưa phát triển mạnh. Vốn nghề trong nhân dân, những nghệ nhân chưa được khai thác mạnh, việc truyền nghề chưa được tổ chức rộng rãi.
Những hạn chế, bất cập trên bắt nguồn từ việc tuyên truyền giáo dục pháp luật về dạy nghề trong nhân dân chưa được đẩy mạnh, nhận thức của người lao động trong học nghề chưa đúng, còn tư tưởng coi trọng bằng cấp; đầu tư cho dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều dự án đầu tư nâng cấp, xây dựng mới cơ sở dạy nghề, đầu tư mua sắm thiết bị dạy nghề đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt nhưng thiếu vốn đầu tư, không bảo đảm được tiến độ thực hiện. Trình độ, năng lực của đội ngũ giáo viên dạy thực hành nghề còn nhiều bất cập, thiếu về số lượng và yếu về trình độ tay nghề, đặc biệt rất thiếu đội ngũ giáo viên có tay nghề giỏi; việc đào tạo liên thông trong dạy nghề chưa được thực hiện rộng rãi, và chưa thực hiện đào tạo liên thông giữa các trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề với các trình độ cao đẳng, đại học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân...
Quyết nghị của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX (tháng 9 vừa qua) xác định: Tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, tạo bước đột phá về đào tạo nghề. Đặc biệt chú trọng đào tạo nghề cho khu vực nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng các cơ sở đào tạo nghề có chất lượng để đáp ứng yêu cầu về nguồn lao động cho công nghiệp và du lịch. Trên cơ sở xác định đó, công tác dạy nghề của tỉnh trong những năm tới tập trung vào những định hướng, mục tiêu phát triển sau:
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề của tỉnh theo quy hoạch đã được phê duyệt. Theo đó, tiến hành đầu tư nâng cấp các trường trung cấp nghề thành trường cao đẳng nghề theo lộ trình đã được xác định tại Đề án tiếp tục đổi mới và phát triển dạy nghề của tỉnh đến năm 2015, tập trung đầu tư xây dựng hoàn chỉnh các trung tâm dạy nghề cấp huyện theo tinh thần Nghị quyết 30a và Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 của Chính phủ. Đến năm 2015, toàn tỉnh có 63 cơ sở dạy nghề gồm: 3 trường cao đẳng nghề; 3 trường trung cấp nghề; 7 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề; 50 trung tâm dạy nghề (trong đó có 16 cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp).
- Quy mô tuyển sinh học nghề của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 đạt 200.000 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của tỉnh đạt trên 40% vào năm 2015.
Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu trên, theo sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy và UBND tỉnh, các cấp các ngành, các địa phương nỗ lực triển khai thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
- Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Dạy nghề và các văn bản quy phạm pháp luật về dạy nghề, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò, vị trí của công tác dạy nghề trong phát triển nguồn nhân lực.
- Tăng cường nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư tập trung cho các cơ sở dạy nghề trọng điểm; đẩy mạnh xã hội hóa dạy nghề, khuyến khích phát triển mạnh các cơ sở dạy nghề ngoài công lập, nhất là đối với các ngành nghề trong quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tích cực huy động các đơn vị, doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề, trong đó chú trọng phát triển loại hình dạy nghề tại doanh nghiệp và dạy nghề lưu động nhằm tạo điều kiện giải quyết việc làm tại chỗ; thực hiện liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ giữa các cơ sở dạy nghề của tỉnh với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước.
- Đẩy mạnh thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; chuyển mạnh đào tạo theo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn, yêu cầu của thị trường lao động và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương; tạo mọi điều kiện thuận lợi để lao động nông thôn học nghề phù hợp nhu cầu, trình độ học vấn và điều kiện kinh tế của mình.
- Tổ chức kiểm định chất lượng dạy nghề đối với các cơ sở dạy nghề; thực hiện tốt việc tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động theo kế hoạch chung của Tổng cục Dạy nghề.
- Phối hợp với các ngành liên quan tăng cường giáo dục định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông, thực hiện phân luồng đào tạo một cách hợp lý, mở rộng đào tạo nghề trình độ trung cấp cho đối tượng tốt nghiệp trung học cơ sở; thực hiện đào tạo liên thông giữa các trình độ đào tạo nghề và các trình độ khác trong hệ thống giáo dục quốc dân; chuẩn hóa chương trình đào tạo đối với các nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống.
- Củng cố, phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề nhằm bảo đảm đủ về số lượng, có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức, lương tâm nghề nghiệp; thực hiện chuẩn hóa và quy hoạch nâng chuẩn, nhất là đối với số giáo viên, cán bộ quản lý tại các cơ sở dạy nghề trọng điểm của tỉnh; thực hiện chính sách cử tuyển đào tạo giáo viên dạy nghề trong một số lĩnh vực, ngành nghề quan trọng và tại các huyện miền núi.
- Kiện toàn bộ máy tổ chức, tăng cường biên chế cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về dạy nghề ở cấp tỉnh và cấp huyện; thực hiện phân cấp hợp lý nhằm phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp, các cơ sở dạy nghề trong tổ chức và quản lý hoạt động dạy nghề.
- Tích cực huy động nhiều nguồn lực tài chính, xây dựng các dự án cơ hội để tranh thủ các nguồn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ để đầu tư cho dạy nghề./.
Việt Nam thuộc nhóm các nước có mức tăng thu nhập của công nhân cao nhất châu Á năm 2011  (16/12/2010)
Các Ngân hàng cam kết đồng thuận trần lãi suất huy động là 14%/năm  (16/12/2010)
WWF gỡ bỏ cá tra ra khỏi danh sách đỏ và hợp tác xây dựng cá tra phát triển bền vững  (16/12/2010)
Công bố ba luật và một nghị quyết  (16/12/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm