Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
TCCSĐT - Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị, trong đó nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân. Thế trận quốc phòng toàn dân trong tình hình mới phải đáp ứng yêu cầu: khi chưa xảy ra chiến tranh thì toàn dân hăng hái lao động sản xuất, mọi công dân đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi chiến tranh xảy ra thì thực hiện chiến tranh nhân dân “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, tạo ra những “tấm lưới sắt”, “bức thành đồng”, “thiên la địa võng” bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Quan điểm cần quán triệt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
Thứ nhất, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong thế trận chung bảo vệ Tổ quốc.
Trước sự phát triển của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng và an ninh ngày càng quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Sự kết hợp giữa quốc phòng và an ninh là việc gắn kết giữa 2 lĩnh vực cơ bản trong thực hiện cùng một mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX nhấn mạnh: “củng cố và hoàn thiện nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh, thành phố, đặc biệt là trên các địa bàn chiến lược; xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc”(1). Đại hội X của Đảng khẳng định: “xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân”(2). Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ: “tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”(3). Quan điểm trên cho thấy sự nhất quán của Đảng trong chỉ đạo xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Xây dựng thế trận bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm sự thống nhất và kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và các hoạt động đối ngoại, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Sự kết hợp đó phải bảo đảm sử dụng có hiệu quả mọi lực lượng vật chất và tinh thần, cả con người và trang bị, nhằm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đồng thời phù hợp tính chất đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động. Sự kết hợp đó không chỉ thực hiện ở tầm vĩ mô mà còn phải triển khai cụ thể và thực hiện tốt ở từng địa phương, cơ sở. Phải phát huy tốt vai trò nòng cốt của quân đội và công an trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân.
Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là một tổ chức quốc phòng - an ninh ở địa phương, được xây dựng trên địa bàn lãnh thổ cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Đó là một bộ phận hợp thành, là nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân cả nước. Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) được xây dựng vững mạnh về mọi mặt theo kế hoạch chung, thống nhất nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp tại chỗ, độc lập, tự lực ngăn chặn và đối phó hiệu quả trước mọi tình huống cả thời bình, thời chiến để bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ chế độ, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân, bảo vệ tiềm lực mọi mặt của địa phương; hoạt động theo cơ chế lãnh đạo, quản lý, điều hành và chỉ huy thống nhất. Xây dựng khu vực phòng thủ là xây dựng tỉnh (thành phố) vững mạnh không chỉ về quốc phòng, an ninh mà còn cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Khu vực phòng thủ vừa phải bảo đảm yêu cầu bảo vệ và tác chiến trên địa bàn toàn tỉnh (thành phố), vừa nằm trong thế trận liên hoàn phòng thủ quốc gia, góp phần củng cố thế trận quốc phòng toàn dân của đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Trong tình hình mới, cần tập trung sức xây dựng các “trụ cột” cơ bản của khu vực phòng thủ: chính trị - tinh thần, kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh. Xây dựng hệ thống chính trị là một nội dung cốt lõi của việc xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố). Sự vững chắc của khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) được quyết định bởi sự vững mạnh của hệ thống chính trị, đặc biệt đối với các cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở. Cấp ủy và chính quyền các cấp không chỉ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà còn lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng- an ninh trong khu vực phòng thủ. Để đáp ứng nhiệm vụ đó, cần tập trung sức xây dựng và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị. Đặc biệt, chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng hệ thống chính quyền các cấp vững mạnh, toàn diện. Đây là vấn đề cơ bản để bảo đảm hệ thống chính trị đủ sức thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, tổ chức xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc.
Kinh tế - xã hội là cốt “vật chất” bảo đảm sự vững chắc của khu vực phòng thủ. Không có cơ sở kinh tế vững mạnh, hoặc sự phát triển kinh tế không đúng định hướng, gây ra những xáo động về xã hội thì cũng không thể xây dựng được khu vực phòng thủ vững chắc. Việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh là nội dung đặc biệt quan trọng trong xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng - an ninh của khu vực phòng thủ, đòi hỏi trong phát triển kinh tế phải tính đến nhu cầu quốc phòng - an ninh và phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Việc bố trí, quy hoạch phát triển kinh tế phải trên cơ sở xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh vững chắc trên địa bàn.
Thứ ba, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, “thế trận lòng dân”, nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.
Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân đòi hỏi phải tạo dựng được “thế trận lòng dân” vững chắc. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; coi trọng xây dựng thế trận trên các địa bàn chiến lược trọng yếu”(4). Đại hội X của Đảng xác định: “xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”(5). Thực chất, xây dựng “thế trận lòng dân” là khơi dậy, quy tụ và phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân trong thế trận quốc phòng - an ninh chung. Đây là nét đặc sắc trong nghệ thuật dựng nước và giữ nước, chống ngoại xâm của dân tộc, phản ánh sâu sắc bản chất và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân nước ta trong thời kỳ mới; ngăn chặn những hành động phá hoại, những mưu toan thôn tính, xâm lược từ bên ngoài. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ là yêu cầu và biện pháp quan trọng để tạo ra thế trận lòng dân vững chắc, một nội dung cơ bản của chiến lược xây dựng quốc phòng trong tình hình mới.
Hiện nay, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng... đang là vấn đề nhức nhối. Do đó, chống quan liêu, tham nhũng, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên cần được xem là một yêu cầu, giải pháp đặc biệt quan trọng của việc xây dựng “thế trận lòng dân”, nâng cao khả năng quốc phòng. Theo đó, trong những năm tới, chúng ta “phải dành nhiều công sức tạo được sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”(6).
Cần nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ và xây dựng Đảng đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ là đòi hỏi bức thiết của tình hình, là mục tiêu, nhiệm vụ của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; đến lượt mình, Đảng lại là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là mối quan hệ biện chứng thống nhất, cùng vận động chi phối quá trình phát triển của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, các khu quốc phòng - kinh tế, nội dung quan trọng trong xây dựng thế trận quốc phòng.
Xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế là nội dung quan trọng trong xây dựng thế trận quốc phòng bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế vừa có vị trí quan trọng trong thế trận quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới, ven biển, vừa có ý nghĩa chiến lược đối với thế trận quốc phòng chung của cả nước. Xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế vững mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân và “phên dậu” bảo vệ Tổ quốc ở vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới, biển đảo. Đây là một nhiệm vụ mới và đang trong quá trình phát triển. Đến nay, chúng ta đã xây dựng được hệ thống các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế mang lại những hiệu quả to lớn về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh trên các địa bàn trọng yếu, địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo, góp phần quan trọng củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội X của Đảng khẳng định: “tiếp tục phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc phòng - an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo”(7). Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo”(8).
Để thực hiện chủ trương này, vấn đề quan trọng là cần thực hiện tốt hơn nữa các chính sách, chế độ đối với lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, biển đảo; chú ý chế độ phụ cấp ưu đãi, chế độ luân chuyển công tác. Thực hiện các chính sách, chế độ tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sĩ có thể yên tâm gắn bó với đơn vị lâu dài, lập gia đình, định cư và sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, góp phần tạo nên các khu dân cư dọc biên giới, gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng “phên dậu” vững chắc bảo vệ Tổ quốc.
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, nhất là sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX, chúng ta đã đạt được những kết quả nổi bật. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc; lực lượng trên các hướng chiến lược được bố trí, điều chỉnh hợp lý; các công trình quốc phòng, an ninh được đầu tư xây dựng, trong đó dành ưu tiên nhất định đến xây dựng thế trận ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo, các chốt chiến dịch, chiến lược; triển khai xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững chắc, có hiệu quả thiết thực, góp phần hoàn chỉnh thế trận của các quân khu và cả nước; khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) thực sự là tổ chức quốc phòng, an ninh thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa phương. Thế trận quốc phòng toàn dân ngày càng gắn bó mật thiết với thế trận an ninh nhân dân cả trong xây dựng, bố trí lực lượng và trong các hoạt động quốc phòng, an ninh nhân dân, tạo thành thế trận vững chắc từ trung ương đến địa phương, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả quốc phòng, an ninh, cả lực lượng quân đội, công an, tạo thành phong trào toàn dân bảo vệ Tổ quốc rộng khắp.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân còn một số hạn chế, tồn tại: đầu tư xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) ở địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Một số cơ sở đầu tư còn dàn trải, trùng lắp, gây tốn kém và hiệu quả thấp.
Những nội dung cần thực hiện nhằm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh
Nhằm quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới vào quá trình xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh, cần triển khai thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng “thế trận lòng dân” ngày càng vững mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng “thế trận lòng dân” trong quá trình xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bản chất xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là quá trình của dân, do dân và vì dân. Mọi tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị đều từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ. Sự tồn tại và phát triển của các tổ chức chính trị - xã hội đều được nhân dân ủng hộ và giám sát. Do đó, xây dựng hệ thống chính trị và xây dựng “thế trận lòng dân” có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc, là nhân tố quyết định tính vững chắc của thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Hai là, kết hợp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội với tổ chức, phân bố các tiềm lực quốc phòng trên các vùng, địa bàn chiến lược.
Nội dung này giữ vị trí trung tâm trong quá trình xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, bởi vì kết hợp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội với tổ chức, phân bố các tiềm lực quốc phòng trên các vùng, địa bàn chiến lược là vấn đề mang tính cốt lõi trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Thực hiện tốt nội dung này, cùng lúc tạo ra tiềm lực kinh tế - xã hội và tiềm lực quân sự, quốc phòng trên các vùng, miền của Tổ quốc, đặc biệt là các địa bàn xung yếu, có tầm chiến lược quan trọng. Đây là những vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính cơ bản, lâu dài, do sự vận động và phát triển nhanh chóng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ba là, tăng cường tổ chức lực lượng và điều chỉnh, bố trí lực lượng quốc phòng trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
Tính chất quan trọng của nội dung này bắt nguồn từ sự rộng lớn, đa dạng, phong phú của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cùng với tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội và môi trường sinh thái của đất nước, khu vực và thế giới có nhiều biến đổi mau lẹ làm cho không gian, nội dung bảo vệ Tổ quốc ngày càng rộng lớn. Điều đó đòi hỏi công tác tổ chức lực lượng và điều chỉnh, bố trí lực lượng quốc phòng trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Bốn là, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) ngày càng vững chắc trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
Đảng ta quan niệm, khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là một tổ chức quốc phòng ở địa phương, giữ vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự thể hiện tập trung nhất của quan điểm quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, là nền tảng cơ bản để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng ở địa phương và là chỗ dựa vững chắc cho toàn dân đánh giặc (nếu chiến tranh xảy ra). Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) được xây dựng toàn diện trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ thời bình và tác chiến khi có chiến tranh, tạo thành thế trận liên hoàn, vững chắc trong thế trận phòng thủ quân khu và củng cố sự vững chắc của thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên địa bàn cả nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”(9).
Năm là, xây dựng hệ thống công trình tác chiến vững chắc, có chiều sâu trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
Các cuộc chiến tranh diễn ra gần đây trên thế giới do các nước đế quốc tiến hành đều sử dụng vũ khí, phương tiện công nghệ cao. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải triển khai xây dựng các công trình quốc phòng ngày càng hoàn chỉnh, vững chắc, có chiều sâu. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế nước ta còn khó khăn, nên cần tập trung xây dựng các công trình trọng điểm phòng thủ biên giới, biển, đảo và thềm lục địa, các hầm ngầm, địa đạo, sân bay, bến cảng, đường cơ động, các chốt chiến dịch, chiến lược… Thực hiện tốt điều này, vừa đáp ứng được yêu cầu trước mắt, vừa tạo ra thế trận quốc phòng toàn dân ngày càng vững chắc, nhằm đối phó với mọi tình huống chiến tranh có thể xảy ra.
Sáu là, xây dựng căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
Khi chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xảy ra, nhu cầu về vũ khí, trang bị, hậu cần kỹ thuật sẽ hết sức to lớn. Thực tiễn chiến tranh cho thấy, mọi dự trữ về vũ khí, trang bị và hậu cần kỹ thuật chỉ đáp ứng được ở giai đoạn đầu của cuộc chiến, còn toàn bộ nhu cầu đều được nền kinh tế sản xuất trong điều kiện thời chiến, do đó xây dựng căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, quyết định tiến trình và kết cục của cuộc chiến. Nó đòi hỏi phải được tiến hành chuẩn bị một cách chu đáo, tỉ mỉ và thận trọng ngay trong thời bình.
Tóm lại, quan điểm chỉ đạo xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân của Đảng có sự bổ sung, phát triển không ngừng theo hướng ngày càng hoàn thiện và phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và quân sự của đất nước, trong khu vực và trên thế giới. Trong gần 30 năm đổi mới, việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân ngày càng được củng cố vững chắc, đạt được nhiều kết quả lớn. Để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, cần quán triệt và thực hiện đầy đủ nội dung của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là những vấn đề cốt lõi cần được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhận thức sâu sắc và thực hiện tốt trong quá trình thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
---------------------------------------------
(1) Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 56
(2), (5), (6), (7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 110, 109, 130, 110
(3), (8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 234
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 118
Thời oanh và thời liệt  (19/08/2014)
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm một số đơn vị công an  (18/08/2014)
Giáo hội Phật giáo chúc mừng lực lượng công an nhân dân  (18/08/2014)
Việt Nam - Campuchia tăng cường thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực  (18/08/2014)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm