Phòng dịch vùng “rốn” lũ

16:21, ngày 06-02-2011

TCCS - Lũ chồng lũ đổ vào “rốn” lũ miền Trung. Hậu họa của thiên tai sẽ đi kèm với hậu họa của dịch bệnh do môi trường ô nhiễm, nếu không có biện pháp phòng ngừa, xử lý kịp thời. Phóng viên Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ sở có cuộc phỏng vấn TS Trần Đắc Phu, Phó Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế, Bộ Y tế, về vấn đề trên, cũng như Chương trình Mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn nói chung.

Phóng viên (PV): Chương trình Mục tiêu quốc gia nước sạch vệ sinh môi trường theo giai đoạn 2 (2006 - 2010) sẽ kết thúc vào cuối năm 2010. Ông đánh giá như thế nào về kết quả thực hiện chương trình?

Ông Trần Đắc Phu: Căn cứ Quyết định 277/2006/QĐ-TTg, ngày 11-12-2006, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia giai đoạn 2 (gọi tắt là NTP2) từ năm 2006 - 2010 (giai đoạn tiếp nối với Chương trình NTP1 (2001 - 2005) với các chỉ tiêu: 85% số dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh, trong đó 50% sử dụng nước đạt Tiêu chuẩn 09/2005/QĐ-BYT của Bộ Y tế; 70% số hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh; 100% các trường học và trạm y tế được cung cấp nước sạch và có nhà tiêu hợp vệ sinh.

Sau 5 năm thực hiện, đến nay, theo báo cáo của các địa phương, tỷ lệ người dân sử dụng nước hợp vệ sinh là 83% (ước cuối năm 2010 đạt 85%) và 45% đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế và tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh là 54% (ước cuối năm 2010 đạt 60%).

Dù kết quả chưa đạt được như mong muốn, nhưng cũng nói lên sự cố gắng lớn của các ngành (trong đó 3 ngành chủ chốt là nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế và giáo dục - đào tạo) cùng với sự nỗ lực của các cấp chính quyền địa phương. Trên thực tế, chúng ta phải thừa nhận việc thực hiện Chương trình hiện nay gặp rất nhiều thách thức. Trước hết là điều kiện hạn chế về kinh tế của người dân, sau đó là những khó khăn trong thay đổi thói quen lạc hậu về vệ sinh môi trường, đặc biệt tại các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo.

Sự thành công của Chương trình thể hiện ở chỗ, đã góp phần nâng cao chất lượng sống của người dân, đẩy lùi dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Thông qua Chương trình, nhận thức của người dân về sử dụng nước sạch và sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh được nâng lên. Nhiều vùng nông thôn, người dân đã được cấp nước theo hệ thống cấp nước tập trung. Một số gia đình đã tự bỏ tiền xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh, khắc phục hiện tượng phóng uế bừa bãi hoặc hạn chế việc người dân sử dụng nhà tiêu không hợp vệ sinh, sử dụng phân tươi bón ruộng gây ô nhiễm môi trường. Trong thời gian qua, cũng đã xuất hiện một số mô hình tốt, như: mô hình cộng đồng tham gia giải quyết triệt để vấn đề phóng uế bừa bãi (CLTS), mô hình Câu lạc bộ sức khỏe cộng đồng (CHC), mô hình tiếp thị vệ sinh...

Tuy vậy, nhìn lại quá trình thực hiện chương trình, chúng ta còn thấy một số tồn tại:

1. Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhưng các chỉ tiêu chưa đạt được kết quả như mong muốn theo Chương trình đề ra. Tại một số địa phương, sự phối hợp giữa các ban, ngành chưa tốt, nhất là ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế, giáo dục - đào tạo. Tại một số tỉnh, chưa có sự quan tâm chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng và chính quyền.

2. Một số địa phương mới chỉ quan tâm đến xây dựng các công trình cung cấp nước sạch tập trung, mà chưa quan tâm đến lĩnh vực vệ sinh, trong đó có việc vận động người dân xây dựng các nhà tiêu hợp vệ sinh - vốn là một trong những mục tiêu quan trọng của Chương trình.

3. Theo quy định của Chương trình, việc đầu tư kinh phí cho các hoạt động vệ sinh ít nhất 21%, tuy vậy, trong thời gian qua, kinh phí giành cho hợp phần này còn hạn chế.

4. Việc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vận động người dân tự bỏ kinh phí để xây dựng các nhà tiêu hợp vệ sinh là rất quan trọng, tuy vậy công tác thông tin giáo dục truyền thông còn chưa được quan tâm đúng mức.

5. Việc khai thác, bảo quản, cơ chế sử dụng công trình sau đầu tư cần được xem xét tổng kết để tránh tình trạng một số công trình sau xây dựng không được khai thác sử dụng hiệu quả, dẫn đến xuống cấp, lãng phí.

6. Việc tổng kết, đánh giá các mô hình vận động cộng đồng khi nhân ra diện rộng cũng cần phải được tiến hành, để rút kinh nghiệm cho giai đoạn tới. Tiếp tục nghiên cứu mô hình nhà tiêu phù hợp với các vùng khác nhau, như: mô hình nhà tiêu giá rẻ, nhà tiêu vùng ngập lụt, nhà tiêu cho vùng đồng bằng sông Hồng, nơi người dân còn có thói quen sử dụng phân tươi bón ruộng.

7. Trong thời gian qua, chưa hình thành mạng lưới cán bộ làm công tác tuyên truyền, vận động, chính vì vậy việc triển khai các hoạt động tại tuyến cơ sở gặp không ít khó khăn.

Hiện nay, Chính phủ đang chuẩn bị phê duyệt Chương trình giai đoạn 3 (2011 - 2015). Thiết nghĩ, nhiều hạn chế cần tiếp tục được khắc phục trên tất cả các mặt, như: cơ chế chính sách, sự chỉ đạo thực hiện, cơ chế đầu tư, vận động kinh phí kỹ thuật quản lý, hình thành mạng lưới cộng tác viên cơ sở..., để Chương trình giai đoạn III được thực hiện một cách hiệu quả hơn.

PV: Ông có thể cho biết cụ thể về nguy cơ phát sinh dịch bệnh do môi trường ô nhiễm sau bão lũ, mà tâm điểm gần đây là trận lũ ở miền Trung?

Ông Trần Đắc Phu: Trận lũ lịch sử tại một số tỉnh miền Trung vừa qua không những gây thiệt hại về người và của mà còn có ảnh hưởng tới môi trường sống và sức khỏe của người dân.

Tại các vùng lũ lụt, chất thải của người và gia súc, xác động vật thực vật thối rữa, các công trình vệ sinh bị ngập lụt làm ô nhiễm nặng nguồn nước, nơi sinh sống của người dân, làm cho mầm bệnh rất dễ phát sinh và phát triển, đặc biệt các bệnh ngộ độc thực phẩm, bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa, nước ăn chân, đau mắt đỏ và có thể một số bệnh do véc-tơ truyền, như: sốt xuất huyết, sốt rét.

Sau bão lụt, gần như hầu hết nguồn nước sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt của người dân bị ngập lụt và bị ô nhiễm. Khi đi thăm và kiểm tra các vùng lụt, chúng tôi thấy hầu hết các giếng đều bị ngập, bùn và chất thải bẩn từ bên ngoài tràn vào. Thậm chí, nhiều nhà vệ sinh cũng bị ngập lụt gây tràn phân người và gia súc vào nguồn nước và môi trường xung quanh. Một số công trình cung cấp nước tập trung bị hư hỏng hoặc nguồn nước cung cấp cho nhà máy bị ô nhiễm, dẫn tới người dân không có nước sạch để sử dụng cho ăn uống.

Khi ngập lụt, các loại thực phẩm bị ô nhiễm. Nếu người dân không có ý thức có thể giết gia súc chết để sử dụng làm thực phẩm. Rau sạch bị ô nhiễm thông qua nguồn nước bị ngập lụt, một số thực phẩm bị phân hủy do ngập nước hoặc môi trường ẩm thấp lâu ngày... Trước tình trạng ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, rõ ràng, nếu chúng ta không có ý thức quản lý, sử dụng an toàn, chắc chắn dịch bệnh sẽ xảy ra.

PV: Xin ông cho biết, với trách nhiệm của mình, Cục Quản lý môi trường y tế đã có những biện pháp nào trong việc chỉ đạo các địa phương phòng chống lũ lụt, dịch bệnh do ô nhiễm môi trường, đặc biệt ô nhiễm nguồn nước.

Ông Trần Đắc Phu: Hằng năm, Bộ Y tế đã xây dựng tài liệu “Hướng dẫn xử lý nước và vệ sinh môi trường trong mùa bão lũ” phát xuống tận y tế cơ sở. Tài liệu là cuốn cẩm nang để hướng dẫn người dân bảo quản, cũng như xử lý tốt nguồn nước khi có lũ lụt xảy ra, trong đó đặc biệt lưu ý tới vấn đề bảo vệ môi trường.

- Hướng dẫn cụ thể kỹ thuật xử lý nước phục vụ ăn, uống, như: việc khử trùng bằng hóa chất. Hiện nay, thông dụng nhất vẫn là khử trùng nước bằng Cloramin. Chúng tôi cũng hướng dẫn rất cụ thể việc bảo vệ giếng trước khi xảy ra lũ lụt và xử lý các giếng nước khi bị ô nhiễm cho bà con như thế nào.

- Hướng dẫn người dân xử lý rác, xử lý phân, gia súc, gia cầm chết, chôn cất tử thi nếu có.

- Hướng dẫn người dân thực hiện bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, mà quan trọng nhất là thực hiện ăn chín, uống sôi.

Chính sự hướng dẫn cụ thể của Bộ Y tế, ngành y tế các cấp, cùng với sự hưởng ứng và chấp hành tốt của người dân trong vùng lũ lụt, nên trong thời gian vừa qua, dịch bệnh không xảy ra đối với các tỉnh miền Trung, sức khỏe người dân vẫn được bảo đảm./.