Kiên trì thực hiện triết lý phát triển giáo dục Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
TCCSĐT - Triết lý giáo dục là cơ sở lý luận, là công cụ nhận thức, định hướng chỉ đạo thực hiện phát triển nền giáo dục của đất nước. Ở Việt Nam, triết lý giáo dục được hình thành và phát triển qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay, khi bối cảnh thế giới đang có nhiều đổi thay, hơn lúc nào hết, triết lý giáo dục Việt Nam cần được bổ sung, hoàn thiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Triết lý giáo dục Việt Nam
Triết lý giáo dục bao gồm các quan điểm, tư tưởng về vai trò, vị trí của giáo dục, đường lối, phương hướng phát triển, mục tiêu, phương pháp, nội dung, mô hình tổ chức giáo dục, chủ thể và đối tượng giáo dục…; trên cơ sở khái quát từ thực tiễn, nhằm đào tạo những con người (nguồn nhân lực) phù hợp với đặc điểm kinh tế, chế độ chính trị, đời sống xã hội và trình độ văn hóa của thời đại.
Trong lịch sử, giáo dục Việt Nam bao giờ cũng có triết lý giáo dục riêng phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Từ xưa, triết lý giáo dục được diễn giải một cách tự nhiên, giản dị bởi những câu thành ngữ, tục ngữ như: “Không thầy đố mày làm nên”, “Học thầy không tày học bạn”, “Học một biết mười”, “Ăn vóc học hay”, “Học đi đôi với hành”, “Tiên học lễ, hậu học văn”… Qua đó quan niệm giáo dục của nhân dân ta về đối tượng, phương pháp giáo dục được thể hiện khá rõ nét và có bản sắc văn hóa, tính khoa học nên đã để lại kho tàng tri thức đồ sộ.
Triết lý giáo dục cách mạng Việt Nam được hình thành sau Cách mạng Tháng Tám với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó triết lý giáo dục Hồ Chí Minh giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Đây là một bộ phận trong hệ tư tưởng và tri thức làm nên thành công của cuộc kháng chiến kiến quốc vĩ đại, xây dựng đất nước Việt Nam mới, mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do trong lịch sử dân tộc. Triết lý giáo dục cách mạng bao gồm toàn bộ những tư tưởng chỉ đạo xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập. Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh được hình thành từ quá trình hoạt động cách mạng của Người. Ngay trong những câu thơ trong tập “Nhật ký trong tù” khi đang bị giam cầm hay những lời căn dặn, phát biểu khi gặp mặt các thầy cô giáo, học sinh, sinh viên của nước nhà, quan điểm giáo dục khoa học, tiến bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện khá rõ. Ở bài “Nửa đêm”, Người nhấn mạnh đến vai trò chủ đạo của giáo dục tới việc hình thành nhân cách của con người là: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong lời kêu gọi Thi đua ái quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phải diệt được ba thứ giặc, trong đó có “giặc dốt” - nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói, lạc hậu của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo chính quyền mới ban hành một loạt các sắc lệnh chống nạn mù chữ, đó là Sắc lệnh 17/SL thành lập nha bình dân học vụ, Sắc lệnh 19/SL quy định mọi làng phải có lớp học bình dân và Sắc lệnh 20/SL cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền. Nhờ thế mà từ 95% dân số mù chữ (năm 1945), đến năm 1948 hơn 8 triệu đồng bào ta (chiếm 1/3 dân số) đã biết đọc, biết viết.
Như vậy, trong giai đoạn kháng chiến, kiến quốc, cả dân tộc ta đã tập trung vào ba nhiệm vụ trọng tâm là diệt “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người có trí tuệ, có tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập dân tộc. Bác còn chỉ ra nhiệm vụ cơ bản nhất của nền giáo dục mới là đào tạo ra những người công dân hữu ích, một nền giáo dục sẽ làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của người học. Nhà nước quyết tâm phát triển một nền giáo dục đào tạo nên những con người sát với thực tiễn cuộc sống, sáng tạo, chủ động thích ứng với hoàn cảnh kháng chiến và kiến quốc. Trong thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác đã nói: “Mỗi một cấp giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ của mình trong lúc này. Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe cho các cháu. Tôi cũng mong các gia đình hãy liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân”(1). Đến với Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (ngày 07-5-1958), Bác nói: “Đối với thanh niên trí thức như các cháu ở đây thì cần đặt lại câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Đó là hai câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, thì mới có phương hướng để sửa chữa khuyết điểm của mình” hay “Vì lợi ích mười năm trồng cây - Vì lợi ích trăm năm trồng người” (ngày 13-9-1958). Những lời căn dặn trên cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở về sự nghiệp trồng người của nước nhà và dành sự quan tâm đặc biệt đến ngành giáo dục qua các giai đoạn lịch sử. Người đã đề ra những quan điểm khoa học về đối tượng, nội dung, phương pháp giáo dục một cách giản dị, dễ hiểu mà sâu sắc. Xuyên suốt triết lý giáo dục Hồ Chí Minh là một nền giáo dục toàn diện, thiết thực, đào tạo những con người bản lĩnh, sáng tạo, làm chủ trong mọi hoàn cảnh để làm cách mạng thắng lợi, để nước ta có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Trên nền tảng triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn chú trọng bổ sung, phát triển cho phù hợp với yêu cầu của các giai đoạn lịch sử. Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ của cách mạng Việt Nam luôn gắn bó với nhau. Quan điểm của Đảng xuyên suốt thời kỳ đổi mới cho đến nay là: giáo dục là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển; sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Trong các văn kiện của Đảng, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (1996), Đảng ta đã xác định mục tiêu cơ bản và nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có tri thức, kỹ năng, vừa hồng vừa chuyên; giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa; thực sự xem giáo dục là quốc sách hàng đầu; giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và toàn dân; phát triển giáo dục đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đại hội lần thứ IX, Đảng ta tái khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; thực hiện giáo dục cho mọi người, học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Thuật ngữ “xã hội hóa”, “xã hội học tập” mới ra đời nhưng bản chất tư tưởng “giáo dục cho mọi người, mọi người vì giáo dục” đã có trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ sau Cách mạng Tháng Tám. Đến Đại hội lần thứ X năm 2006, Đảng ta quyết định: “đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. Để thực hiện mục tiêu nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại năm 2020, tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định triết lý giáo dục theo đường lối đổi mới. Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Đảng ta đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Công cuộc đổi mới gần 30 năm nay đã đưa nền giáo dục nước ta bước sang giai đoạn mới, đạt được những thành tựu nhất định, góp phần tích cực cho công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Đó chính là kết quả của việc thực hiện triết lý giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục trong tình hình mới
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về định hướng Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, trong điều kiện đất nước có nhiều khó khăn, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt những thành tựu rất có ý nghĩa. Tuy nhiên đến nay, so với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và phát triển bền vững, giáo dục và đào tạo nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập. Giáo dục vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa được ưu tiên cao trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chưa được coi là nhân tố quyết định của phát triển đất nước. Nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo đã được nêu ra từ Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII song chậm được khắc phục, có mặt còn nặng nề hơn. Khoa học giáo dục còn lạc hậu; chất lượng giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa tạo ra lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ về nhân lực của nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa tích cực chủ động góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc. Quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, kinh phí đầu tư cho giáo dục còn hạn chế; thiếu dự báo nhu cầu nhân lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhu cầu học tập của nhân dân để làm cơ sở cho công tác quy hoạch phát triển giáo dục.
Trước yêu cầu mới, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã thảo luận và quyết định ra Nghị quyết về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Theo đó, triết lý giáo dục - cơ sở lý luận, định hướng cho mọi hoạt động của một nền giáo dục, đã được Đảng ta bổ sung và phát triển phù hợp với yêu cầu thời đại. Đảng ta xác định đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới tư duy về giáo dục, đổi mới từ nền tảng quy định bản chất giáo dục (triết lý giáo dục) mà trước tiên là mục tiêu giáo dục. Mục tiêu giáo dục là dạy và học làm người, đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, năng lực thẩm mỹ, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kết hợp hài hòa sự phát triển của cá nhân với sứ mệnh đào tạo nhân lực phục vụ xã hội. Tiếp đó là đổi mới toàn diện hệ thống tổ chức, loại hình giáo dục và đào tạo; nội dung, phương pháp dạy và học; cơ chế quản lý; xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ; cơ sở vật chất, nguồn lực và các điều kiện bảo đảm khác, đồng bộ ở tất cả các bậc học (giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, đào tạo nghề). Đảng ta cũng xác định rõ tính chất nguyên lý giáo dục: Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Những mục tiêu và nguyên lý đó phải có tính nhất quán, thống nhất, có hệ thống; được thực hiện và triển khai, quán triệt nghiêm túc thông qua các chương trình, hoạt động giáo dục cụ thể ở các cấp và trong xã hội. Cùng với việc thực hiện các mục tiêu, nguyên lý đó phải có những chế tài đủ mạnh để bảo đảm dân chủ, công bằng, xây dựng một nền giáo dục trong sạch và lành mạnh. Bên cạnh đó, đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, các giải pháp đồng bộ, khả thi, có cơ sở khoa học. Đổi mới căn bản và toàn diện cần vừa củng cố phát huy các thành tựu và điển hình đổi mới, vừa kiên quyết chấn chỉnh những lệch lạc, những việc làm trái quy luật; khắc phục cơ bản các yếu kém kéo dài đang gây bức xúc; phát triển những nhân tố tích cực mới; đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình phù hợp với thực tế đất nước, địa phương.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đã làm biến đổi thế giới nhanh chóng và đặt nước ta đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức, nguy cơ. Do đó, giáo dục đào tạo càng đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Những hạn chế, thách thức của giáo dục phải được nhận thức sâu sắc, có giải pháp hữu hiệu và lộ trình để khắc phục, vượt qua, đưa sự nghiệp giáo dục lên tầm cao mới. Để có thể khẳng định được vị trí và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giáo dục, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định một số giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo như sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục và đào tạo; quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội; đổi mới công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc đổi mới, phát triển giáo dục.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề; đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đổi mới và đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.
Thứ ba, đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan, theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất lượng cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo, tăng tỷ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; hướng tới có loại hình cơ sở giáo dục do cộng đồng đầu tư; đa dạng hóa các phương thức đào tạo; có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.
Thứ năm, đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng.
Thứ sáu, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo; phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp; có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Thứ bảy, đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo.
Thứ tám, nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.
Thứ chín, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại; góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới giáo dục./.
-------------------------------
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 80,81
Tạo cú “hích” để Phú Quốc thành đặc khu kinh tế quan trọng  (19/11/2013)
ANMC21: Điểm nhấn quy hoạch và năng lượng đô thị  (19/11/2013)
Đồng bằng sông Cửu Long thu hút đầu tư vào 138 dự án  (19/11/2013)
Việt Nam điện thăm hỏi vụ tai nạn máy bay nghiêm trọng tại Nga  (19/11/2013)
Tổng thống Namibia thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam  (19/11/2013)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên