TCCSĐT - Có thể nói, sau 5 năm gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam đã có những bước trưởng thành cả về số lượng, chất lượng, lĩnh vực hoạt động và khả năng thâm nhập, tiếp cận, khai phá thị trường, cũng như khẳng định một số thương hiệu hàng hoá đối với người tiêu dùng trong nước và trên thế giới. Tuy nhiên, những yếu kém, bất cập làm hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nước ta trên thị trường trong và ngoài nước cũng bộc lộ ngày càng rõ nét hơn.

Năng lực cạnh tranh của một ngành hay một doanh nghiệp thường được hiểu là năng lực duy trì được lợi nhuận và thị phần trong và ngoài nước. Theo cách hiểu này, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được phản ánh ở những khía cạnh cơ bản như: (1) Khả năng cạnh tranh của sản phẩm; (2) Khả năng duy trì và mở rộng thị phần; (3) Khả năng duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh; (4) Khả năng tăng năng suất và hiệu quả làm việc; (5) Khả năng thích ứng và đổi mới; (6) Khả năng thu hút nguồn lực; (7) Khả năng liên kết và hợp tác. Michael E.Porter - người được coi là cha đẻ của lý thuyết cạnh tranh hiện đại, cho rằng: “Cạnh tranh không phải là cung cấp cái tốt nhất mà là tạo ra sự khác biệt. Vì cái tốt nhất không phải người tiêu dùng nào cũng có thể mua được, do tốt nhất thường là nhiều tiền nhất”.

Với cách nhìn nhận như trình bày ở trên về năng lực cạnh tranh, có thể thấy các doanh nghiệp nước ta đang đối mặt với nhiều yếu tố làm hạn chế năng lực cạnh tranh của mình. Đó là:

- Thiếu vốn, quy mô vốn còn nhỏ bé. Đến tháng 10-2011, theo Báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, cả nước còn 1.309 doanh nghiệp, trong đó 452 doanh nghiệp an ninh quốc phòng, tham gia hoạt động công ích; 857 doanh nghiệp kinh doanh, tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng mà Nhà nước cần nắm giữ hoặc lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần khác ít hoặc chưa tham gia; quy mô doanh nghiệp nhà nước được nâng lên, chủ yếu là vừa và lớn. Theo cơ cấu sở hữu, các doanh nghiệp nhà nước hiện nay có 701 doanh nghiệp do địa phương quản lý, 355 doanh nghiệp thuộc các bộ ngành, 253 doanh nghiệp thuộc các tập đoàn, tổng công ty 91. Tổng số vốn chủ sở hữu cuối năm 2010 của các doanh nghiệp nhà nước là trên 700.000 tỉ đồng, trong đó của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 653.000 tỉ đồng. Vẫn còn 102 doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỉ đồng, 8 doanh nghiệp có số vốn dưới 1 tỉ đồng (đây là những doanh nghiệp chủ yếu làm công ích, nông lâm trường ở vùng sâu vùng xa). Những số liệu thống kê trên cho thấy, có thể thấy phần lớn các doanh nghiệp nước ta có quy mô vốn thấp, thiếu vốn.

- Công tác nghiên cứu thị trường chưa được thực hiện một cách bài bản, chuyên nghiệp. Bên cạnh những doanh nghiệp khẳng định rằng, việc nghiên cứu thị trường cần được thực hiện một cách thường xuyên, thì vẫn còn không ít doanh nghiệp cho rằng, công tác nghiên cứu thị trường không nhất thiết phải làm thường xuyên, mà chỉ tiến hành nghiên cứu trước khi có ý định xâm nhập thị trường. Trong khi đó, có một bộ phận doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp tư nhân khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài rất hạn chế. Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường và đã tiến hành nghiên cứu, song, “lực bất tòng tâm”. Nhiều doanh nghiệp trên cơ sở thông tin thu thập được, họ tiến hành phân tích bằng cảm tính rồi đưa ra dự báo, dẫn đến kinh doanh thụ động.

- Khả năng xây dựng chiến lược sản phẩm còn hạn chế.
Trước yêu cầu ngày càng cao của thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm đến yếu tố chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có đặc điểm là: yếu tố vốn trong cấu thành sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, lại luôn đi sau các nước khác về kiểu dáng, tính năng, thậm chí nhiều sản phẩm tiêu dùng và công nghiệp lạc hậu so với thế giới nhiều thế hệ. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất. Việc nhập khẩu với số lượng lớn nguyên vật liệu cũng làm ảnh hưởng trực tiếp tới tính chủ động của các doanh nghiệp trong kế hoạch kinh doanh, làm phát sinh thêm nhiều chi phí khác (vận chuyển, các thủ tục hải quan, chi phí bảo hiểm....).

- Mạng lưới phân phối, kênh tiêu thụ chưa rộng khắp.
Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ nên đã làm hạn chế tầm hoạt động và mạng lưới phân phối. Nhiều doanh nghiệp vẫn áp dụng hình thức các kênh phân phối qua các trung gian thương mại, nên chưa thiết lập được hệ thống phân phối hàng hóa đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối cùng. So với nhiều công cụ cạnh tranh khác, hệ thống kênh phân phối của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa được quan tâm đúng mức và còn tồn tại nhiều hạn chế. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, kênh phân phối vẫn còn mang nhiều dấu ấn của thời kỳ bao cấp. Đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một bộ phận vẫn còn tổ chức kênh phân phối theo kiểu trao đổi đơn (bên mua và bên bán chỉ quan hệ với nhau một lần), một bộ phận khác tổ chức kênh phân phối theo kiểu tự nhiên, không hề có tác động quản lý điều khiển theo hướng có mục tiêu.

Hoạt động xúc tiến hỗn hợp của các doanh nghiệp còn ở trình độ thấp, giản đơn và không mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức in ấn và phát hành các tờ rơi giới thiệu về doanh nghiệp. Có rất ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình xúc tiến hỗn hợp để giới thiệu sản phẩm cho khách hàng. Chi phí dành cho quảng cáo còn quá thấp, chất lượng quảng cáo còn rất yếu do thiếu chuyên gia trong lĩnh vực này. Theo báo cáo của Cục Xúc tiến thương mại năm 2004, các doanh nghiệp đã quan tâm đến việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu; tuy nhiên, mới chỉ có 4,2% doanh nghiệp cho rằng thương hiệu là vũ khí trong cạnh tranh, 5,4% cho rằng thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp, còn 30% cho rằng thương hiệu sẽ giúp bán được hàng với giá cao hơn. Trong khi đó có đến 90% người tiêu dùng lại cho rằng thương hiệu là yếu tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm. Việc xây dựng và phát triển thương hiệu của các doanh nghiệp cũng gặp phải những khó khăn: 23% doanh nghiệp cho rằng có khó khăn về vốn và tài chính, nạn hàng giả và vi phạm bản quyền (19%), cơ chế, chính sách, thủ tục... (14%), nguồn nhân lực (11,8%), xây dựng chiến lược và cách thực hiện (8%), thủ tục hành chính (7,2%), giá dịch vụ (6,3%). Nhiều doanh nghiệp chưa đăng ký thương hiệu tại nước nhập khẩu, nên bị mất thương hiệu trên thị trường thế giới.

- Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới ở mức thấp.
Đối với hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là tại các nước phát triển, chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới nâng cao chất lượng và năng suất lao động hay tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh và tạo một vị trí vững chắc trên thị trường. Theo số liệu của Cục Xúc tiến thương mại, năm 2004 có 69,1% doanh nghiệp đầu tư chi phí cho nghiên cứu và phát triển. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ cao nhất, chiếm 84,6%, cuối cùng là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ dành 0,2% đến 0,3% doanh thu cho nghiên cứu phát triển sản phẩm mới.

-  Trình độ công nghệ lạc hậu. Theo điều tra, phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 đến 3 thế hệ. 80% - 90% công nghệ nước ta đang sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ những năm 1950 - 1960, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Tính chung cho các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, trung bình: 38%, lạc hậu và rất lạc hậu: 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 75%. Theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ, đổi mới công nghệ thuộc loại năng lực yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam.

- Nhân lực trong các doanh nghiệp chưa được đào tạo bài bản. Chi phí lao động tuy rẻ nhưng năng suất lao động chỉ ở mức trung bình và thấp. Mặt khác, phần lớn các doanh nghiệp phải tự đào tạo nghề cho người lao động (chiếm 85,06%), chứ không phải lao động được đào tạo qua hệ thống trường dạy nghề tập trung.

Những nhược điểm nêu trên sẽ tạo thành một sức ép rất lớn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế, các đối thủ cạnh tranh sẽ nhiều hơn, mạnh hơn, lĩnh vực phải cạnh tranh rộng hơn. Một số ưu đãi hiện nay sẽ không còn khi chấm dứt lộ trình mở cửa theo cam kết với WTO.

Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong xu thế hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp nước ta có rất nhiều việc phải làm, trong đó có một số nội dung sau.


Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý

- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp, cần có sự phân biệt tương đối về tính chất, công việc của các bộ phận, tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tập trung đầu tư chuyên sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp một cách nhịp nhàng.

- Điều chỉnh hợp lý tổ chức hợp với yêu cầu của đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp với xây dựng mạng lưới thông tin, xác định các quyết định đưa ra một cách chính xác, hiệu quả.

- Đảm bảo thông tin trong nội bộ doanh nghiệp, bảo đảm mọi thành viên hiểu rõ được mục đích của tổ chức, đạt được sự thống nhất giữa mục đích cá nhân và mục đích của tập thể. Tổ chức thông tin trong nội bộ doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Thông tin phải được phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi người, mọi cấp trong tổ chức được biết rõ ràng; các tuyến thông tin cần trực tiếp và ngắn gọn; duy trì hoạt động của toàn bộ hệ thống thông tin một cách thường xuyên không bị ngắt quãng.


Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp

- Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có ở các doanh nghiệp. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, lao động đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn.

- Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể dễ dàng điều chỉnh lao động khi có những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động.

- Tiêu chuẩn hóa cán bộ, lao động trong doanh nghiệp. Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ phải cụ thể hóa đối với từng ngành nghề, từng loại công việc và phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường.

Tăng cường hoạt động marketing hỗn hợp.

Một là,
tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối với bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh. Thông qua việc nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ nắm được những thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp đang kính doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phương án chiến lược và biện pháp cụ thể được thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp nên tiến hành nghiên cứu thị trường theo trình tự sau: xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu thị trường, xác định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, thực hiện, điều chỉnh kế hoạch và viết báo cáo.

Hai là, hoàn thiện chiến lược sản phẩm. Các doanh nghiệp cần chọn những sản phẩm có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng và nâng cao của xã hội. Khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trong lựa chọn sản phẩm kinh doanh, hiện đại hóa khâu thiết kế sản phẩm, lựa chọn hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao chiến lược sản phẩm.

Sản phẩm phải đảm bảo thích nghi và đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã và bao gói. Sự thích ứng của sản phẩm với một thị trường phụ thuộc vào 2 yếu tố cơ bản: mức độ chấp nhận người tiêu dùng cuối cùng và mức độ sẵn sàng chấp nhận của các nhà sản xuất, của các khách hàng trung gian (nhà bán buôn, nhà bán lẻ).

Ba là, hoàn thiện chiến lược phân phối và tổ chức lại mạng lưới bán hàng. Doanh nghiệp nên chọn kiểu kênh phân phối dọc (đây là kiểu tổ chức kênh rất hiệu quả và đang được áp dụng phổ biến). Tư tưởng cơ bản về hệ thống kênh phân phối dọc là:

- Các thành viên liên kết với nhau thành một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, bền vững để không bị phá vỡ bởi bất kỳ xung lực nào từ môi trường bên ngoài. Trong đó phải có một tổ chức giữ vai trò người chỉ huy kênh (thường là nhà sản xuất).

- Tính thống nhất và sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên kênh được đảm bảo bằng sự hợp tác toàn diện và dựa trên nền tảng thống nhất lợi ích của toàn bộ hệ thống kênh và của từng thành viên.

Để tạo lập được một hệ thống kênh phân phối dọc, các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc: đầu tư xứng đáng để thiết kế một cơ cấu kênh phân phối tối ưu, số lượng kênh được sử dụng và tỷ trọng hàng hóa được phân bổ vào mỗi kênh; biến cơ cấu kênh phân phối tối ưu thành hiện thực, nghĩa là phát triển mạng lưới phân phối và thực hiện các biện pháp để điều khiển, quản lý nó; xử lý kịp thời có hiệu quả các mâu thuẫn, xung đột trong kênh, giải quyết các xung đột ngay từ khi mới phát sinh; thường xuyên đánh giá hoạt động của các thành viên kênh, để có sự quản lý và điều chỉnh hệ thống kênh một cách có căn cứ, kịp thời. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần quảng cáo uy tín của doanh nghiệp và tính nổi trội của các dịch vụ đi theo.

Giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm

Khơi dậy khả năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của từng cá nhân và tập thể nhằm tìm cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên liệu, chi phí quản lý doanh nghiệp. Ngoài ra, từng thành viên trong doanh nghiệp cần tự nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề. Do đó, trước mắt cần đẩy mạnh đầu tư và thay thế một số loại thiết bị, máy móc sản xuất đã quá lạc hậu, cho năng suất thấp và tiêu hao nhiều năng lượng.

Xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp.

- Các doanh nghiệp cần trao việc hoạch định chiến lược và sáng tạo nhãn hiệu cho các chuyên gia nhằm mục đích là biến mình thành người thẩm định, sử dụng các dịch vụ tư vấn như: tư vấn sáng tạo phát triển nhãn hiệu, tư vấn về pháp lý, tư vấn kinh doanh và hoạch định chiến lược, tư vấn về quảng cáo và truyền thông, giám sát các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn.

- Xây dựng thương hiệu phải khơi dậy cảm xúc của khách hàng. Để xây dựng một thương hiệu được khách hàng tin cậy thì doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đối tượng khách hàng của mình hơn ai hết và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động.

- Nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Việc đăng ký sở hữu công nghiệp, đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương hiệu tại các thị trường mà doanh nghiệp có chiến lược đầu tư kinh doanh là rất cần thiết.

Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử trong điều hành kinh doanh.

- Xây dựng các chi nhánh nhằm thu được thông tin chính xác, kịp thời về giá cả, chất lượng, điều kiện giao hàng…

- Liên kết với các bạn hàng truyền thống để họ có thể giúp đỡ trong việc thông tin. Xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách nhằm nghiên cứu đầy đủ, cung cấp thông tin về thị trường có thể dự báo về các biến động của thị trường.

- Chủ động xây dựng và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế (như ISO: 9000, về quản lý chất lượng, HACCP/ISO 22.000 về quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, OHSSAS 18.000 về sức khỏe công nghiệp và ISO: 14.000 về quản lý môi trường...) vì kinh doanh trên mạng đòi hỏi rất cao về tiêu chuẩn hóa sản phẩm và chất lượng.

Tuy nhiên, muốn nâng cao được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng cần phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Xét ở góc độ vĩ mô, Nhà nước cần tập trung vào một số vấn đề sau:

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý nhằm hình thành và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường.

- Thực hiện mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính; sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước theo yêu cầu quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.

- Tiếp tục cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo, thực hiện xã hội hóa và chấp nhận cơ chế thị trường trong đào tạo đại học các ngành kỹ thuật, dạy nghề nhằm nâng cao đội ngũ nguồn nhân lực.

- Tập trung phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng, thông tin của nền kinh tế và phát huy vai trò của các hội, hiệp hội ngành nghề./.