Xử lý bài toán lãi suất, tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp
Theo quy định, trần lãi suất huy động của
NHNN là không quá 14%/năm đối với nội tệ, song lãi suất thực trả cho người gửi
tiền lên tới 17-20%/năm nhưng vốn vẫn khó huy động. Số liệu NHNN đã công bố rộng
rãi cho thấy, tính đến cuối tháng 5-2011, tổng nguồn vốn huy động của hệ thống NHTM,
tổ chức tín dụng (TCTD) trong cả nước tăng có 1,48% so với cuối năm 2010. Đây là
mức tăng thấp nhất trong so với cùng kỳ nhiều năm gầy đây. Đáng chú ý là lãi suất
huy động vốn, thu hút tiền gửi của các NHTM tăng lên tới 18 – 20%/năm, cao nhất
trong nhiều năm qua, tương đương mức lãi suất cuối năm 2008, nhưng vẫn không
thu hút được tiền gửi vào hệ thống ngân hàng. Điều này cũng chứng tỏ lý thuyết
truyền thống tăng cao lãi suất để thu hút
bớt tiền từ lưu thông về ngân hàng không phải lúc nào cũng đạt được hiệu quả và
không phù hợp trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Đặc biệt là vốn huy động nội
tệ lại giảm tới 2,75%, mặc dù lãi suất huy động vốn tăng rất cao, còn vốn huy
động ngoại tệ tăng 18,84%. Điều này cho thấy những tháng đầu năm 2011, với lo
ngại đồng tiền Việt
Về cơ cấu tiền gửi theo đối tượng khách hàng, tiền gửi dân cư tăng 11,84%; trong đó tiền gửi nội tệ về số tuyệt đối tăng 107.300 tỉ đồng, tương ứng với mức tăng 11,39% và tiền gửi ngoại tệ tăng 8,63%. Riêng về tiền gửi nội tệ phải khẳng định rằng số tuyệt đối tăng có cấu phần quan trọng là do lãi suất cao. Bởi vì với lãi suất tiền gửi bình quân 1,5%/tháng, khách hàng thường gửi kỳ hạn ngắn, gửi 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng,… tiền lãi lĩnh sau mỗi kỳ gửi ngắn lại được bổ sung, tăng tích luỹ vào gốc thì riêng yếu tố lãi suất đã làm lượng tiền gửi trong 5 tháng đầu năm tăng thêm khoảng 7-8% . Do đó số tiền gửi tăng thêm thực tế chỉ vào khoảng 3-4%, đây là mức tăng rất thấp.
Tiền gửi của các Tổ chức nói chung, của các doanh nghiệp nói riêng giảm đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là các doanh nghiệp rút tiền ra để đầu tư kinh doanh. Mặt khác, công nợ giữa các doanh nghiệp tăng lên, nhiều doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau bởi nhiều doanh nghiệp không vay được vốn ngân hàng thương mại, hoặc lãi suất vốn vay quá cao, nên không dám vay, tình trạng đó cũng làm cho tiền gửi của doanh nghiệp tại NHTM giảm.
Tính chung đến hết tháng 5-2011, dư nợ cho vay của hệ thống ngân hang đối với nền kinh tế ước tính tăng khoảng trên 5%, trong khi đó số dư vốn huy động lại chỉ tăng có 1,48%, chỉ bằng dưới 1/3 so với mức tăng dư nợ cho vay. Đây là nguyên nhân lớn nhất làm cho lãi suất huy động vốn nội tệ tiếp tục ở mức cao, thị trường khan hiếm vốn.
Được biết đến cuối tháng 5-2011 có 14 NHTM có mức tăng trưởng tín dụng vượt 20%; trong đó có một số NHTM tăng dư nợ cho vay lên tới 24 – 26%, so với mức dư nợ đến cuối năm 2011 không được tăng quá 20% theo Nghị quyết số 11 của Chính phủ.
Một điểm đáng chú ý nữa là thời điểm đầu tháng 3-2011 có 18 NHTM có dư nợ cho vay phi sản xuất lên tới trên 25% và 24 NHTM có tỷ trọng trên 26%. Theo quy định của NHNN, đến ngày 30-6-2011 các NHTM phải giảm tỷ trọng dư nợ cho vay phi sản xuất xuống còn 22% tổng dư nợ. Trong bối cảnh thị trường bất động sản trì trệ, bên cạnh đó số đông các khoản đã cho vay chưa đến hạn, thời hạn cho vay ghi rõ trong hợp đồng tín dụng, bởi vì NHTM không dễ gì thu nợ trước hạn được của khách hàng để giảm dư nợ cho vay phi sản xuất. Một giải pháp khác là NHTM phải tăng tổng dư nợ sẽ làm cho tỷ trọng dư nợ phi sản xuất giảm xuống. Nhưng mới đây NHNN có văn bản nói rõ việc bảo đảm mức tăng tín dụng không quá 20% duy trì trong suốt cả năm 2011 nên không dễ gì tăng được tổng dư nợ. Do đó NHNN cần linh hoạt lùi thời hạn quy định tỷ lệ dư nợ cho vay phi sản xuất thay vì mốc 30-6-2011, nên lùi sang thời điểm 30-9-2011 hoặc kéo dài hơn để bảo đảm tính khả thi, tháo gỡ khó khăn cho NHTM trong bối cảnh hiện nay.
Nguyên nhân quan trọng thứ hai đó là NHNN tiếp tục phát đi thông điệp ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát, tiếp tục thu hút tiền từ lưu thông về. Trong khoảng thời gian cuối tháng 4 và đầu tháng 5-2011, thông qua mua thêm 1 tỉ USD bổ sung quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, về mặt lý thuyết Ngân hàng Nhà nước đã cung ứng thêm ra lưu thông 20.600 tỉ đồng. Trong suốt 1 tháng, kể từ cuối tháng 4 đến 20-5-2011 NHNN đã thu hút ròng gần 40.000 tỉ đồng trên thị trường mở. Tiếp đó trong tuần từ 23 đến 27-5-2011, NHNN tiếp tục thu hút ròng thêm trên 17.000 tỷ đồng về. Như vậy, về mặt lý thuyết, đã có một khối lượng tiền trong lưu thông được thu hút về NHNN.
Nghị quyết 11 của Chính
phủ về ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và bảo đảm an sinh xã hội đã
xác định rất rõ là chính sách tài khóa thắt chặt và điều hành chính sách tiền
tệ phải chặt chẽ, thận trọng để bảo đảm công ăn việc làm và duy trì tăng trưởng
của nền kinh tế ở mức hợp lý 6-6,5%/năm. Nhưng trong thực tế điều hành chính
sách tiền tệ như đã đề cập ở trên lại theo hướng thắt chặt, được sử dụng khá
nhiều biện pháp và nghiệp vụ: thường xuyên tăng tất cả các loại lãi suất chủ
đạo của NHNN, khống chế hạn mức tăng trưởng tín dụng không quá 20% và tổng
phương tiện thanh toán không quá 16%, khống chế tỷ lệ cho vay phi sản xuất, quy
định tỷ lệ vốn huy động được sử dụng cho vay, thu hút tiền từ lưu thông về,....nhưng
lạm phát vẫn rất cao, đành rằng chính sách đã có độ trễ, nhưng thắt chặt tiền
tệ được bắt đầu thực hiện từ ngày 1-11-2010 đến nay đã là hơn 7 tháng. Như vậy
một lần nữa lại khẳng định, lạm phát không phải chủ yếu và duy nhất từ yếu tố
tiền tệ, mà từ giá cả thị trường thế giới, do thiên tai, do tỷ giá,...do chi phí
sản xuất lương thực, thực phẩm tăng cao,...Bởi vậy để kiềm chế lạm phát có hiệu
quả không chỉ trông chờ vào thắt chặt tiền tệ, không chỉ giảm cầu mà còn phải tăng
cung, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, đặc biệt là tăng cung lương thực
- thực phẩm ra thị trường. Việc NHNN tiếp tục thu hút bớt tiền từ lưu thông về
sẽ làm cho thanh khoản của nhiều NHTM thêm khó khăn, lãi suất không thể hạ được,
lãi suất cho vay lên quá cao, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn.
Nền
kinh tế tăng trưởng được ví như cơ thể một người mới lớn đang phát triển, có
nhu cầu hợp lý về vốn với lãi suất phù hợp để sản xuất thêm nhiều hàng hóa,
dịch vụ, cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Vì vậy, về nguyên tắc
cần bổ sung máu cho cơ thể, hay đáp ứng nhu cầu hợp lý khối lượng tiền trong
lưu thông để cơ thể hoạt động nhịp nhàng, để nền kinh tế vận hành hiệu quả. Năm
2011 kinh tế dự kiến tăng trưởng trên 6%, dự kiến tiền trong lưu thông tăng
thêm 16%. Con số 16% cũng được xem là thắt chặt vì nhiều năm qua, chỉ tiêu này
lên đến 25-30%. Thế nhưng trong 5 tháng đầu năm 2011, Ngân hàng Nhà nước mới chỉ
bơm thêm 0,98%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 1,5%, dẫn đến một cơ
thể lớn nhưng bị thiếu máu, nền kinh tế thiếu tính thanh khoản, lãi suất huy động
bị đẩy lên cao nhưng vốn vẫn không huy động được.
Tình
trạng thiếu máu, thiếu thanh khoản, thiếu vốn trầm trọng hơn khi giá cả trên thị
trường xã hội tăng cao. Trong 5 tháng đầu năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng tăng
12,07%, kinh tế tăng trưởng 5,43%, vì vậy cần phải có thêm tiền trong lưu thông
thì hoạt động của nền kinh tế mới không bị ảnh hưởng. Giả sử rằng ở thời điểm
này, Ngân hàng Nhà nước có sử dụng hết chỉ tiêu tăng lượng tiền trong lưu thông
của cả năm 2011 thì cũng chỉ đủ bù đắp cho mức tăng của giá cả và tăng trưởng
kinh tế.
Tiền
gửi của doanh nghiệp giảm, doanh nghiệp rút ra để sử dụng, vốn của doanh nghiệp
bị chiếm dụng lẫn nhau, dư nợ cho vay tăng thấp nhất so với cùng kỳ nhiều năm, thị
trường bất động sản trì trệ... làm cho vòng quay vốn trong nền kinh tế chậm
lại, tiền luân chuyển qua kênh ngân hàng giảm, hệ số nhân tiền cũng giảm đi,
càng tác động đến thanh khoản của nền kinh tế. Vì vậy đòi hỏi NHNN, với vai trò
là ngân hàng Trung ương, ngân hàng của các ngân hàng linh hoạt trong vấn đề này
thì mới tháo được nút gỡ về lãi suất hiện nay, chứ không chỉ có một chiều thu
hút tiền từ lưu thông về.
Nhiều
năm qua, về cơ bản nguyên lý lãi suất huy động thực dương được áp dụng đối với
hệ thống ngân hàng, tức là lãi suất cao hơn lạm phát, có lợi cho người gửi
nhưng gây khó khăn cho người vay vốn. Nhưng đến nay và trong điều kiện hiện nay
thì nguyên lý trên cần được linh hoạt trong cả nhận thức và hành động. Bởi vì
lãi suất lên tới 17% - 20% mà vốn huy động vẫn không vào, thì liệu rằng tăng
lên 21-23% lãi suất có vào không và khi đó lãi suất cho vay sẽ tăng tới đâu,
liệu có phải rằng lên tới 26% - 28%/năm hay không. Thử hỏi rằng có nền kinh tế
nào trong khu vực có mức lãi suất nội tệ lên tới đỉnh điểm đó như ở Việt
Tại Mỹ lạm phát là 3,2%
nhưng lãi suất huy động của các ngân hàng và định chế tài chính là 0,5%/năm;
con số này ở khu vực đồng ơ-rô ở châu Âu tương ứng là 2,8 và 2,2%; tại Trung
Quốc 5,3% và 3,25%; Xin-ga-po 5% và 0,5%; Thái Lan 3,27% và 1,5-2,1%. Việt Nam
lạm phát dự kiến trên ( chỉ só CPI bình quân 5 tháng đầu năm 2011 so với cùng
kỳ năm 2010) 15% nhưng hiện nay các ngân hàng thương mại trả cho người gửi
17-18%, thậm chí 20%, gánh nặng lãi suất đổ lên người vay, người sản xuất, đến
doanh nghiệp, đến người lao động.
Tại
nhiều nước trên thế giới, nguyên tắc thực dương được áp dụng với lãi suất cho
vay. Người gửi tiền phải chấp nhận lãi suất thấp hơn lạm phát nhưng thị trường
chứng khoán sẽ thu hút được vốn, doanh nghiệp tạo công ăn việc làm.
Vì
vậy, cần thống nhất trong nhận thức và hành động về nguyên lý lãi suất theo
thông lệ quốc tế, cần sớm tiếp cận nguyên tắc điều hành lãi suất mới, có lộ
trình thực hiện để hướng tiền nhàn rỗi chảy vào kênh đầu tư.
Bảo đảm tính thanh khoản cho nền kinh tế và cho các NHTM, hạ lãi suất cho vay, hoàn toàn nằm trong tầm tay của NHNN, vấn đề là cần linh hoạt để hành động./.
“Hồ Chí Minh - Cuộc hành trình của thời đại”  (06/06/2011)
Đoàn cán bộ Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thăm Lào  (06/06/2011)
Kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống người cao tuổi Việt Nam  (06/06/2011)
IMF cho Ai Cập vay 3 tỷ USD để khôi phục kinh tế  (06/06/2011)
Hai cơ quan tham mưu Việt – Lào tăng cường hợp tác  (06/06/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm