TCCS - Trong những năm gần đây, tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học trên toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng đang trên đà suy giảm mạnh. Để khắc phục tình trạng trên, thời gian qua, tỉnh Ninh Bình đã chú trọng công tác chuyển giao, ứng dụng khoa học - công nghệ, triển khai các dự án và hợp tác quốc tế trong bảo tồn thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học. Tuy nhiên, để tiếp tục tăng cường công tác này trong thời gian tới, rất cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Bảo tồn thiên nhiên, gìn giữ đa dạng sinh học

Đa dạng sinh học đóng một vai trò quan trọng trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương, vùng lãnh thổ và trong đời sống của mỗi cá nhân. Đa dạng sinh học là cơ sở của sự sống, mang lại những lợi ích trực tiếp cho con người và đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc gia.

Đa dạng sinh học là một thuật ngữ dùng để chỉ tất cả các hình thức của sự sống trên trái đất và các thuộc tính tự nhiên của chúng. Đa dạng sinh học mà chúng ta thấy hôm nay là kết quả của một quá trình tiến hóa qua hàng tỷ năm, được hình thành bởi quá trình tự nhiên và do ảnh hưởng của con người. Đa dạng sinh học cũng là sự kết hợp của các hình thức sống, tương tác với nhau và với phần còn lại của môi trường, từ đó làm cho Trái đất trở thành một nơi sinh sống độc đáo cho con người. Đồng thời, nó cung cấp nhiều hàng hóa và dịch vụ giúp duy trì cuộc sống của chúng ta.

Đa dạng sinh học được xem xét theo 3 mức độ: 1- Đa dạng sinh học ở cấp loài, bao gồm toàn bộ các sinh vật sống trên Trái đất, từ vi khuẩn đến các loài thực, động vật và các loài nấm; 2- Ở cấp quần thể đa dạng sinh học, gồm sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể sống cách ly nhau về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể; 3- Đa dạng sinh học còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã mà trong đó các loài sinh sống và các hệ sinh thái, nơi mà các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của các mối tương tác giữa chúng với nhau.

Từ nhiều năm nay, đa dạng sinh học đã trở thành vấn đề toàn cầu vì hiện có hàng triệu loài động, thực vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng do những tác động của con người. Theo thống kê của các nhà khoa học, con người là một trong số 100 triệu loài sinh vật đang sống trên hành tinh. Sự đa dạng của các loài sinh vật - trong đó có con người tạo nên một mạng lưới thiên nhiên an toàn giúp xã hội loài người có thể đương đầu, thích ứng với biến động của tự nhiên, đặc biệt là vấn đề biến đổi khí hậu hiện nay. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, đa dạng sinh học đang bị suy giảm với tốc độ rất nhanh. Bằng các hoạt động của mình, con người đã phá hủy hàng loạt các khu rừng nguyên sinh, các vùng đất ngập nước. Diện tích các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần... Theo báo cáo của Liên hợp quốc, con người đã làm gia tăng tốc độ tuyệt chủng của các loài gấp 1.000 lần so với tự nhiên. Tổng cộng có trên 17.000 loài được biết đến đang có nguy cơ tuyệt chủng. Số loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh. Các nguồn gen hoang dã cũng đang trên đà suy thoái nhanh và thất thoát. Trên thực tế, con số này có thể còn lớn hơn bởi có rất nhiều loại động, thực vật đã bị tuyệt chủng từ lâu mà con người không biết đến.

Sự suy giảm đa dạng sinh học đe dọa nguồn cung cấp thực phẩm, cơ hội thưởng thức các hình thức giải trí và tham quan, cũng như đe dọa đến việc cung cấp các nguồn nguyên liệu gỗ, các loại thuốc và năng lượng của chúng ta. Nó cũng gây trở ngại cho các chức năng sinh thái thiết yếu cho đời sống nhân loại. Mặc dù có không ít nỗ lực khắc phục những hạn chế trên được thực hiện trong suốt nhiều năm qua, song sự suy giảm đa dạng sinh học trên thế giới vẫn tiếp tục phá hủy môi trường sống, chủ yếu là do tình trạng khai thác quá mức, ô nhiễm...

Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) nhận định, trong 100 năm qua, hơn 90% các giống cây trồng đã biến mất khỏi các cánh đồng, trang trại. Một nửa số giống vật nuôi đã bị mất. Hiện nay, tại tất cả ngư trường chính trên thế giới, các loài thủy sản đang bị đánh bắt ở mức tới hạn và nhiều loài không bảo đảm sự phát triển bền vững...

Việt Nam được ghi nhận là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học, một trong 16 quốc gia sở hữu sự đa dạng sinh học cao nhất trên toàn cầu với các nguồn gen quý, hiếm, phong phú và đặc hữu. Trong giai đoạn 2016 - 2022, Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, đặt ra nhiều mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học cho giai đoạn mới.

Đa dạng sinh học ở Việt Nam có ý nghĩa to lớn trong đời sống tự nhiên và con người, cung cấp khoảng 80% lượng thủy sản khai thác từ vùng biển ven bờ và đáp ứng gần 40% lượng protein cho người dân. Nghề thủy sản đem lại nguồn thu nhập chính cho khoảng 8 triệu người và một phần thu nhập cho khoảng 12 triệu người. Khoảng 70% tăng trưởng du lịch là từ các vùng duyên hải có các hệ sinh thái tự nhiên giàu đa dạng sinh học. Các nghiên cứu cho thấy, những dải rừng ngập mặn ven biển Việt Nam góp phần giảm ít nhất 20% - 50% thiệt hại do bão, nước biển dâng và sóng thần gây ra. Đặc biệt, hệ thống rừng ngập mặn trồng ven đê còn đóng vai trò là tấm lá chắn xanh, giảm 20% - 70% năng lượng của sóng biển, bảo đảm an toàn cho các con đê biển, giúp tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng cho việc duy tu, sửa chữa đê biển... Bảo tồn đa dạng sinh học đã được Đảng và Nhà nước coi là một trong những giải pháp để thực hiện phát triển bền vững đất nước.

Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng suy thoái về đa dạng sinh học cùng với những thách thức to lớn khác, như đại dịch COVID-19, ô nhiễm môi trường và nguồn nước, suy thoái đất đai, rác thải nhựa đại dương và những ảnh hưởng cực đoan của biến đổi khí hậu. Trong những năm gần đây, tài nguyên đa dạng sinh học trên toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng đang trên đà suy giảm mạnh. Tỷ lệ độ che phủ rừng trên trái đất đã giảm từ 31,6% xuống còn 30,6% trong giai đoạn 1990 - 2015. Hệ sinh thái rạn san hô hiện đã giảm 35% trong thời gian từ 1970 - 2015 và 25% số loài được nghiên cứu bị đe dọa tuyệt chủng... Trong xu thế đáng báo động này, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia đang phải đối mặt với nhiều thách thức.

Bảo tồn thiên nhiên, gìn giữ đa dạng sinh học ở tỉnh Ninh Bình

Ninh Bình là tỉnh có hệ sinh thái đa dạng, phong phú, phân thành 5 hệ đặc trưng mang tính tiêu biểu về quần thể loài và quyết định tính đa dạng sinh học, tập trung tại các khu vực đã được bảo tồn, bảo vệ, như Vườn quốc gia Cúc Phương, Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long và khu rừng Văn hóa - lịch sử Hoa Lư. Các hệ sinh thái đều mang tính tiêu biểu về quần thể loài và quyết định tính đa dạng sinh học.

Từ quan điểm bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên dựa trên nguyên tắc phát triển bền vững, việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình đã dựa trên quy hoạch bảo vệ môi trường, quy hoạch phát triển bền vững các khu rừng đặc dụng, bảo đảm phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương;  trên cơ sở phân vùng lãnh thổ, phân vùng chức năng phù hợp với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và môi trường.

Tỉnh Ninh Bình đã kịp thời ban hành các văn bản cụ thể hóa chính sách, pháp luật về gìn giữ đa dạng sinh học gắn với bảo vệ môi trường, như Nghị quyết số 02/NQ-TU, ngày 17-8-2016, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, “Về bảo tồn, phát huy giá trị Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An”; Chỉ thị số 01/CT-UBND, ngày 14-4-2009, của Ủy ban nhân dân tỉnh, về việc “Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ các loài chim hoang dã trên địa bàn tỉnh”; Quyết định số 13/2010/QĐ-UBND, ngày 28-6-2010, của Ủy ban nhân dân tỉnh, “Về việc ban hành quy chế phối hợp quản lý và bảo vệ động vật hoang dã trên địa bàn tỉnh Ninh Bình”,...

Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch và sự chỉ đạo của tỉnh Ninh Bình, các ngành chức năng đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về đa dạng sinh học, chung tay bảo vệ đa dạng sinh học, tích cực trồng cây xanh, bảo vệ môi trường, không săn bắn, sử dụng thực phẩm từ các loài động vật hoang dã, quý hiếm,... Đồng thời, triển khai các biện pháp sử dụng bền vững và thực hiện các cơ chế chia sẻ lợi ích từ dịch vụ hệ sinh thái và đa dạng sinh học. Khuyến khích phát triển vùng đệm các khu bảo tồn bằng việc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm cuộc sống của người dân, hạn chế việc lấy gỗ củi, săn bắn động vật hoang dã của người dân sống trong và ven rừng.

Đặc biệt, tỉnh Ninh Bình đã chủ động, tích cực trong công tác kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học. Từ đầu năm 2021 đến nay, ngành kiểm lâm tỉnh Ninh Bình đã phát hiện, ngăn chặn và xử lý 13 vụ vi phạm hành chính về lâm nghiệp, tiếp nhận 9 cá thể tê tê, rùa, culi, khỉ, cua từ các hộ gia đình tự nguyện giao nộp và tái thả 28 cá thể culi và rùa nhân sa.

Hiện nay, tỉnh Ninh Bình đã và đang đẩy mạnh thực hiện quy hoạch tổng thể du lịch, hình thành các khu du lịch quốc gia, nhằm khai thác tiềm năng tạo ra những sản phẩm du lịch đặc thù gắn với thương hiệu “Ninh Bình - Tràng An”. Phát triển du lịch, đồng thời làm tốt công tác bảo tồn đa dạng sinh học, các giá trị di sản, kết hợp bảo đảm quốc phòng - an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đó là hướng đi chuyên nghiệp, bền vững, tạo động lực để tỉnh Ninh Bình phấn đấu thành vùng du lịch trọng điểm quốc gia.

Tỉnh gắn phát triển du lịch với bảo tồn đa dạng sinh học, vừa tạo việc làm, vừa là một kênh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân trong công tác bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học. Điển hình như tại Vườn quốc gia Cúc Phương đã có cơ chế khuyến khích người dân tham gia nhận khoán khoanh nuôi bảo vệ và phát triển rừng. Đồng thời, hỗ trợ đầu tư cho các thôn, bản giáp ranh xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện các chương trình hỗ trợ con giống phát triển kinh tế, như nuôi ong, gà, hươu, lợn rừng, nhím, trâu, bò,... nhằm giải quyết việc làm, nâng cao đời sống, phát triển kinh tế - xã hội cho người dân.

Cùng với đó, tỉnh Ninh Bình triển khai các công cụ quản lý kinh tế trong công tác bảo tồn, như thu phí từ việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác của các tổ chức, cá nhân có dự án chuyển đổi để đầu tư trồng rừng thay thế. Thử nghiệm và nhân rộng mô hình cho thuê môi trường rừng để khai thác du lịch, phục vụ nhu cầu về du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, thay dần hình thức đầu tư bằng tiền của nhà nước. Tăng cường công tác kiểm soát hoạt động buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ các loài động, thực vật nguy cấp, quý, hiếm.

Các sở, ban, ngành và các đơn vị có chức năng, đặc biệt là lực lượng công an và kiểm lâm trong tỉnh đã tích cực triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, kiên quyết đấu tranh với các hành vi vận chuyển, buôn bán, tiêu thụ các loài động vật nguy cấp, quý hiếm trên địa bàn. Các tụ điểm kinh doanh, buôn bán các loài động vật hoang dã, quý hiếm đã cơ bản được xóa bỏ, các cơ sở nuôi nhốt, kinh doanh, các nhà hàng có sử dụng các sản phẩm chế biến từ động vật hoang dã đã được kiểm soát nghiêm ngặt.

Bên cạnh đó, tỉnh Ninh Bình cũng chú trọng công tác chuyển giao, ứng dụng khoa học - công nghệ, triển khai các dự án và hợp tác quốc tế trong bảo tồn đa dạng sinh học. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế với một số tổ chức phi chính phủ về các lĩnh vực bảo vệ rừng và đa dạng sinh học thông qua các chương trình đào tạo, tập huấn cộng đồng về nâng cao năng lực bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học…

Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình, với nhiều giải pháp trong bảo tồn thiên nhiên và phát triển đa dạng sinh học, hiện nay, nhiều hệ sinh thái trên địa bàn đã được bảo tồn và phát triển, như Vườn Quốc gia Cúc Phương, Khu Ramsar Vân Long, Rừng đặc dụng Hoa Lư,... Đáng chú ý, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã công nhận 7 xã ven biển thuộc địa giới hành chính huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình thuộc vùng đệm và vùng chuyển tiếp của Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng, Quần thể danh thắng Tràng An được công nhận là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới, là di sản “kép” đầu tiên ở Việt Nam và Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long được công nhận là khu Ramsar thứ 9 của Việt Nam. Những nơi này hiện đang lưu giữ những giá trị đa dạng sinh học phong phú với các loài quý hiếm có tầm quan trọng quốc tế và nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam và thế giới.

Để tiếp tục bảo tồn đa dạng sinh học thời gian tới

Tỉnh Ninh Bình đang triển khai “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” nhằm khai thác hiệu quả lợi thế về tiềm năng du lịch, phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, tạo ra những sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng, mang thương hiệu “Ninh Bình - Tràng An”, gắn với công tác bảo tồn các giá trị tự nhiên, giá trị văn hóa và bảo đảm tốt các vấn đề quốc phòng - an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Cùng với các giải pháp mang tính toàn cầu, theo các nhà quản lý, nhà khoa học về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, Việt Nam nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng, cần thực hiện tổng thể, đồng bộ các giải pháp:

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học để có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy và nhận thức nhằm hướng tới mẫu hình tiêu thụ bền vững đối với tài nguyên sinh vật, thúc đẩy sự tham gia của các bên liên quan trong bảo tồn đa dạng sinh học. Tập trung chuyển đổi thành công cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”, từ khai thác thâm dụng tài nguyên thiên nhiên sang kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, các-bon thấp; đầu tư cho vốn tự nhiên. Từ đó, huy động sự tham gia của cộng đồng và khu vực tư nhân trong công tác bảo tồn, phục hồi, sử dụng bền vững đa dạng sinh học, di sản thiên nhiên; tạo cơ chế để có thể huy động các lực lượng tham gia vào công tác bảo tồn, thông qua các cơ chế đồng quản lý, cơ chế tự quản và các mô hình hợp tác công - tư nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững thiên nhiên, đa dạng sinh học. Nghiên cứu các giải pháp phục hồi hệ sinh thái.

Hai là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học: hoàn thiện pháp luật, thể chế quản lý, tăng cường năng lực thực thi pháp luật về đa dạng sinh học; kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý về đa dạng sinh học; xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý về đa dạng sinh học; nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ thực thi pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý từ Trung ương đến địa phương; đa dạng hóa nguồn lực và phương thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm công tác bảo tồn đa dạng sinh học các cấp. Bên cạnh đó, cần lồng ghép bảo tồn đa dạng sinh học trong các quy hoạch, chiến lược, kế hoạch của các ngành kinh tế có tác động nhiều đến đa dạng sinh học, như nông, lâm, ngư nghiệp, du lịch, giao thông, năng lượng, sử dụng đất. Đặc biệt, các khu vực bảo tồn cần được ưu tiên trong các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, tỉnh.

Ba là, tập trung giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường tại các lưu vực sông chính, các khu, cụm công nghiệp, làng nghề; thúc đẩy phân loại, thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn; ứng dụng công nghệ tiên tiến trong tái chế, xử lý chất thải rắn, giảm dần việc chôn lấp trực tiếp chất thải; khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm, suy thoái tài nguyên đất; tăng cường các hoạt động phòng, chống các loại tội phạm về môi trường, săn bắn và buôn bán động vật hoang dã.

Bốn là, bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng. Đẩy mạnh triển khai các mô hình bảo tồn, sử dụng bền vững các hệ sinh thái. Xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch phục hồi, sử dụng bền vững các hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái, nhất là rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển và các vùng đất ngập nước quan trọng; thực hiện quản lý dựa trên khả năng phục hồi đối với các rạn san hô. Kiểm soát tác động tiêu cực của các dự án, hoạt động kinh tế tới thiên nhiên, đa dạng sinh học. Thực hiện đánh giá tác động của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đối với di sản thiên nhiên trong đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường. Xây dựng và triển khai áp dụng cơ chế bồi hoàn đa dạng sinh học, đặc biệt đối với hệ sinh thái rừng và đất ngập nước.

Năm là, củng cố, tăng cường hệ thống di sản thiên nhiên, đặc biệt là thông qua triển khai đồng bộ các quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, trong đó ưu tiên tăng cường năng lực và nguồn lực cho quản lý và bảo vệ môi trường các di sản thiên nhiên; thành lập mới, đề xuất các tổ chức quốc tế công nhận danh hiệu cho các di sản thiên nhiên. Triển khai xây dựng hướng dẫn kỹ thuật lập dự án xác lập, công nhận di sản thiên nhiên. Kiểm soát chặt chẽ các tác động lên đa dạng sinh học, đặc biệt là tác động từ các dự án phát triển thông qua việc thực hiện tốt đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường.

Sáu là, tiếp tục xây dựng và thực hiện các chương trình bảo tồn loài động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm, cây trồng vật nuôi được ưu tiên bảo vệ. Phát triển hệ thống cơ sở bảo tồn, các trung tâm cứu hộ động vật, vườn động vật, vườn thực vật, vườn cây thuốc. Tăng cường ngăn chặn khai thác, săn bắt, đánh bắt, buôn bán trái phép động vật, thực vật hoang dã, quý hiếm; kiểm soát chặt chẽ hoạt động gây nuôi động vật hoang dã. Song song với đó, đẩy mạnh bảo tồn các nguồn gen quý hiếm, đặc hữu, có nguy cơ tuyệt chủng. Thúc đẩy tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích. Tăng cường kiểm soát, ngăn chặn sự du nhập, phát triển và giảm thiểu tác động của các loài sinh vật ngoại lai xâm hại. Tiếp tục kiểm soát rủi ro từ sinh vật biến đổi gen, chú trọng việc quản lý nhập khẩu, cấp phép và nhân giống sinh vật biến đổi gen.

Bảy là, quản lý, bảo vệ chặt chẽ, phục hồi rừng tự nhiên; bảo vệ và phát triển bền vững 100% diện tích rừng hiện có. Ngăn chặn có hiệu quả nạn khai thác thực vật, động vật hoang dã và phá rừng trái pháp luật. Tăng cường năng lực phòng, chống cháy rừng. Bên cạnh đó, thực hiện hiệu quả mục tiêu về Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái tự nhiên; thúc đẩy mạnh mẽ phong trào toàn dân tham gia thực hiện có kết quả Chương trình trồng 1 tỷ cây xanh; bảo vệ rừng, phục hồi, trồng mới rừng ngập mặn; nâng cao tỷ lệ bảo tồn gắn với phát triển kinh tế sinh thái, sinh kế bền vững của người dân.

Tám là, mở rộng hợp tác quốc tế, huy động, hỗ trợ chuyển giao công nghệ và nghiên cứu khoa học nhằm tăng cường hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học. Mặc dù có hệ sinh thái tự nhiên đa dạng và phong phú, nhưng trong bối cảnh dân số đông, nhu cầu tiêu thụ tài nguyên lớn, các phương thức tiêu thụ, sử dụng tài nguyên vẫn còn chưa bền vững... đang khiến cho đa dạng sinh học của Việt Nam nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng bị suy giảm với tốc độ nhanh. Vì vậy, nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học là rất cần thiết, đây là trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức và toàn bộ người dân cùng toàn bộ nguồn lực xã hội./.