Hoàn thiện cơ chế, chính sách về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, góp phần phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay
TCCS - Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được xác định là chủ thể góp phần đẩy nhanh việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, cần có những cơ chế, chính sách, trong đó có chính sách về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để quản lý, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam và thực hiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm hàng hóa từ kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ. Theo đó, kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng đã được cấp văn bằng bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, hoặc được công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; chương trình máy tính đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. Một trong những điều kiện để doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ là khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ được cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định, công nhận. Trong nhiều trường hợp, văn bản xác nhận, công nhận kết quả khoa học và công nghệ đó chính là văn bằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Như vậy, có thể thấy rằng việc hình thành và hoạt động của doanh nghiệp khoa học và công nghệ gắn kết khá chặt chẽ với một loại tài sản đặc biệt và ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh - đó là quyền sở hữu trí tuệ. Do đó, cơ chế, chính sách về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có tác động không nhỏ đến việc phát triển các doanh nghiệp này bởi chính sách bảo hộ hợp lý sẽ khuyến khích doanh nghiệp tạo ra và ứng dụng, thương mại hóa nhiều tài sản trí tuệ có giá trị vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và ngược lại.
Chính sách, pháp luật của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền nhân thân (moral rights) và quyền tài sản (economic rights), trong đó quyền tài sản là nội dung quan trọng, phức tạp và được bàn luận nhiều nhất, bởi đó là quyền trị giá được bằng tiền, gắn với giá trị kinh tế của tài sản. Quyền sở hữu trí tuệ có vai trò, ý nghĩa đối với sự phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Chủ trương của Đảng về sở hữu trí tuệ được đề cập thông qua các chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo trong các ngành, lĩnh vực. Trên cơ sở quan điểm phát triển kinh tế tri thức, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đặt ra những nhiệm vụ và giải pháp phát triển khoa học và công nghệ, trong đó nhấn mạnh đến việc tập trung nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ; phát triển đồng bộ thị trường khoa học, công nghệ, có cơ chế, chính sách phù hợp để đẩy mạnh thương mại hóa sản phẩm khoa học, công nghệ và phát triển sàn giao dịch, tăng cường chuyển giao công nghệ, phát triển các tổ chức chuyển giao công nghệ, kết nối cung - cầu, kết nối thị trường trong nước với thị trường trong khu vực và trên thế giới gắn với bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học, công nghệ, hình thành hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học, công nghệ.
Các chủ trương của Đảng về sở hữu trí tuệ đã được cụ thể hóa trong chính sách của Nhà nước và được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009 và năm 2019 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành về việc trao các quyền sở hữu trí tuệ và thiết lập bộ máy cơ quan nhà nước phục vụ việc xác lập, bảo vệ các quyền đó; những quy định về điều kiện để mỗi chủ thể sáng tạo được trao quyền và các ngoại lệ quyền nhằm bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. Các chính sách đó công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng; không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh; khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sáng tạo, khai thác tài sản trí tuệ nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; hỗ trợ tài chính cho việc nhận chuyển giao, khai thác quyền sở hữu trí tuệ phục vụ lợi ích công cộng; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ cho hoạt động sáng tạo và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; ưu tiên đầu tư cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, các đối tượng liên quan làm công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và nghiên cứu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Có thể nói, hệ thống pháp luật hiện hành về sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã tương đối toàn diện, bao quát được các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ, đáp ứng chuẩn mực về “tính đầy đủ” và “tính hiệu quả” được quy định trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS/WTO) và các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ (hoặc có điều khoản về sở hữu trí tuệ) mà Việt Nam tham gia.
Ngoài ra, một số chính sách cũng được cụ thể hóa thông qua các chương trình về hỗ trợ xây dựng, khai thác, phát triển và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, trong đó điển hình là Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp (được triển khai theo Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg, ngày 4-4-2005, của Thủ tướng Chính phủ “Về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp”. Chương trình có mục tiêu chính là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế thông qua việc hỗ trợ xác lập, khai thác, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, Chương trình đã tập trung triển khai các hoạt động khuyến khích hoạt động sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp tạo lập, khai thác, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các thành quả sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp khai thác thông tin sở hữu trí tuệ...
Qua gần 15 năm triển khai, Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp đã hỗ trợ đăng ký bảo hộ, khai thác sáng chế cho 162 giải pháp công nghệ; hỗ trợ tạo lập, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ cho 254 sản phẩm chủ lực địa phương; tập huấn về sở hữu trí tuệ cho hơn 90.000 lượt người; tuyên truyền, phổ biến kiến thức về sở hữu trí tuệ trên Đài Truyền hình Trung ương và các đài truyền hình địa phương với gần 7.500 số lần phát sóng. Sự thành công của Chương trình tạo cơ sở cho việc xây dựng và triển khai các Chương trình phát triển tài sản trí tuệ ở 63 địa phương trên cả nước.
Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp đã tạo ra hướng đi mới cho các địa phương, các cơ quan chuyên môn trong việc triển khai các hoạt động hỗ trợ cộng đồng, doanh nghiệp sử dụng công cụ sở hữu trí tuệ phục vụ phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh nói riêng và kinh tế - xã hội địa phương nói chung. Chương trình cũng góp phần hỗ trợ kiểm soát nguồn gốc và chất lượng, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý và khoa học định hướng người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm được bảo hộ, ngăn chặn xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có các cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ ở Việt Nam, như cơ chế trao quyền tự chủ cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp khoa học - công nghệ; cơ chế trao quyền đăng ký sáng chế, quản lý, khai thác sáng chế cho tổ chức chủ trì dự án nghiên cứu; cơ chế phân chia quyền và lợi ích trong hợp tác nghiên cứu công - tư... Đặc biệt, mới đây Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2019/NĐ-CP, ngày 01-02-2019, “Về doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, trong đó quy định nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho nhóm chủ thể này, như miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, ưu đãi tín dụng, được giao tài sản là kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước theo quy định, hỗ trợ nghiên cứu, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ,... Nhằm khuyến khích ứng dụng, đổi mới công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ cũng được ưu tiên trong việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ, công nhận, đăng ký lưu hành sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ để phát triển sản phẩm mới.
Cùng với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ, Việt Nam cũng tham gia đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với những cam kết sâu và rộng về sở hữu trí tuệ, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA)... Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, các hiệp định này đã nâng cao mức bảo hộ vượt bậc so với chuẩn mực quốc tế phổ biến hiện nay. Việc thực thi cam kết trong các hiệp định thương mại tự do sẽ mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội và lợi ích kinh tế, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Các cơ quan quản lý nhà nước phải nghiên cứu việc xây dựng chính sách, pháp luật để bảo đảm thi hành cam kết theo cách phù hợp nhất với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được cơ hội và vượt qua thách thức.
Tuy vậy, thực tiễn thi hành chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ hơn 10 năm qua cũng cho thấy còn không ít hạn chế trong hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam, khiến sở hữu trí tuệ chưa thực sự là động lực cho sự phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Hệ thống các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ còn phức tạp, gồm nhiều tầng nấc; tính đồng bộ và thống nhất trong quy định giữa các văn bản pháp luật chưa cao; một số văn bản hướng dẫn chậm được xây dựng, chưa bảo đảm tính kịp thời. Hoạt động xác lập quyền sở hữu trí tuệ về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu của xã hội, tuy nhiên vẫn còn không ít hạn chế, đặc biệt là thời hạn và chất lượng xử lý đơn, do đó làm chậm và thậm chí rút ngắn thời hạn độc quyền thực tế của văn bằng bảo hộ. Hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ chưa hiệu quả, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn phổ biến và ngày càng phức tạp. Các chính sách hỗ trợ, ưu đãi khuyến khích tạo lập và khai thác tài sản trí tuệ mặc dù đã có nhưng chưa thực sự hấp dẫn, thủ tục hưởng ưu đãi phức tạp, do vậy các doanh nghiệp chưa khai thác được đầy đủ và hiệu quả các chính sách ưu đãi.
Đặc biệt, vẫn còn vướng mắc trong các quy định pháp luật liên quan đến việc đăng ký kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (thiết kế bố trí) được tạo ra trên cơ sở sử dụng nguồn kinh phí, phương tiện vật chất - kỹ thuật của Nhà nước. Thực tiễn cho thấy, quy định pháp luật hiện hành chưa thực sự tạo động lực cho việc khai thác, thương mại hóa các đối tượng này. Cụ thể, nếu cơ quan chủ đầu tư (cơ quan nhà nước) đứng ra đăng ký thì cơ quan này sẽ là chủ văn bằng bảo hộ sở hữu trí tuệ. Một cơ quan nhà nước với chức năng, thẩm quyền theo quy định gần như không thể tiến hành khai thác thương mại sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí. Nếu cơ quan chủ đầu tư lựa chọn phương án chuyển nhượng quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân khác thì sẽ gặp phải trở ngại lớn bởi cần nhiều điều kiện bổ sung khác khiến việc chuyển nhượng khó có khả năng thành công. Với cả hai tình huống nêu trên, hoặc là các kết quả nghiên cứu do Nhà nước đầu tư không được đăng ký bảo hộ hoặc là được bảo hộ nhưng hầu như không được khai thác thương mại, gây lãng phí lớn cho Nhà nước và xã hội.
Bên cạnh đó, các chủ thể sáng tạo, khai thác tài sản trí tuệ còn thiếu kỹ năng sử dụng công cụ sở hữu trí tuệ cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh. Hoạt động nghiên cứu của các trường đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức khoa học và công nghệ khác còn mang tính thụ động, thiếu sự gắn kết với hoạt động sản xuất, kinh doanh dẫn tới hạn chế đáng kể việc khai thác, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa quan tâm và đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, chủ yếu sử dụng công nghệ nước ngoài để tránh rủi ro và tiết kiệm chi phí hơn so với đầu tư nghiên cứu. Do vậy, tài sản trí tuệ được tạo ra còn hạn chế về cả số lượng lẫn chất lượng, chưa có định hướng tập trung nguồn lực để tạo ra các tài sản trí tuệ từ thế mạnh của Việt Nam.
Những hạn chế trên có tác động không nhỏ đến hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp khoa học và công nghệ - nhóm chủ thể có vai trò quan trọng trong việc tạo ra và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách về sở hữu trí tuệ.
Trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam đang cơ cấu lại và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi năng suất, chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu và phát triển kinh tế tri thức, hoạt động sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã thu được những thành tựu quan trọng. Mặc dù nền móng cho hoạt động sở hữu trí tuệ đã được xây dựng một cách tương đối vững chắc, nhưng hiện trạng của chính hệ thống này cũng như mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao. Do đó, trong giai đoạn tới sở hữu trí tuệ phải thực sự đóng vai trò động lực thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo để phát triển số lượng và giá trị của khối tài sản trí tuệ quốc gia, góp phần nâng cao năng lực sáng tạo và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là thực sự cần thiết và cấp bách trong thời gian tới.
Trên cơ sở đánh giá đầy đủ và khách quan tình hình phát triển hoạt động sở hữu trí tuệ của Việt Nam những năm vừa qua, đặt trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu phát triển, nâng cao năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp khoa học và công nghệ nói riêng, chúng ta đã xác định rõ định hướng, mục tiêu phát triển hệ thống sở hữu trí tuệ. Thứ nhất, phát triển đồng bộ, hiệu quả hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam ở tất cả các khâu sáng tạo, xác lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy hoạt động khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, gia tăng đóng góp của tài sản trí tuệ vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thứ hai, xác lập quyền sở hữu trí tuệ bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, công bằng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội. Thứ ba, gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng tài sản trí tuệ mới của cá nhân, tổ chức Việt Nam. Thứ tư, nâng cao hiệu quả sử dụng quyền sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh hoạt động khai thác, thương mại hóa tài sản trí tuệ; gia tăng đáng kể số lượng doanh nghiệp sử dụng hiệu quả công cụ sở hữu trí tuệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, số lượng sản phẩm có hàm lượng sở hữu trí tuệ cao.
Một số nhiệm vụ, giải pháp ưu tiên để phát triển hệ thống sở hữu trí tuệ, tạo động lực thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ
Một là, rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật liên quan, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động sáng tạo, xác lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa các chủ thể trong xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ.
Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật theo hướng trao quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ với những điều kiện nhất định, đồng thời quy định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể liên quan.
Ba là, tạo cơ chế phân chia lợi ích hợp lý giữa các nhóm chủ thể liên quan trong thương mại hóa các quyền sở hữu, sử dụng và hưởng lợi đối với tài sản trí tuệ.
Bốn là, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến giao dịch tài sản trí tuệ: góp vốn, giao dịch bảo đảm, định giá, kế toán, kiểm toán tài sản trí tuệ; ban hành cơ chế, chính sách về tài chính, tín dụng và các ưu đãi khác để thúc đẩy khai thác tài sản trí tuệ, đặc biệt là tài sản trí tuệ được tạo ra từ hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước.
Năm là, xây dựng và hoàn thiện các chỉ số về sở hữu trí tuệ trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; sử dụng các chỉ số về sở hữu trí tuệ làm căn cứ đánh giá hiệu quả hoạt động của các viện nghiên cứu, trường đại học, các tổ chức khoa học và công nghệ khác và doanh nghiệp.
Sáu là, đơn giản hóa, hiện đại hóa, công khai, minh bạch trình tự và thủ tục hành chính về sở hữu trí tuệ; nâng cao chất lượng các dịch vụ công về sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh xã hội hóa và hợp tác công - tư trong cung cấp các dịch vụ về sở hữu trí tuệ.
Bảy là, xây dựng, cung cấp các công cụ và dịch vụ thông tin sở hữu trí tuệ cho các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp; hình thành các tổ chức cung cấp dịch vụ phân tích thông tin sáng chế và dự báo xu hướng phát triển công nghệ để định hướng cho hoạt động khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Tám là, hình thành và phát triển mạng lưới trung tâm chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ tại các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp nhằm thúc đẩy việc tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ.
Chín là, hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh sử dụng công cụ sở hữu trí tuệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ các cá nhân, tổ chức doanh nghiệp Việt Nam bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài.
Mười là, xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực về sở hữu trí tuệ, trong đó chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao; xây dựng một số cơ sở đào tạo chuyên sâu về sở hữu trí tuệ với các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với từng nhóm đối tượng, trong đó chú trọng đào tạo chuyên gia quản trị tài sản trí tuệ cho doanh nghiệp.
Mười một là, tăng cường truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ, khuyến khích đổi mới sáng tạo; xây dựng ý thức tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hình thành văn hóa sở hữu trí tuệ trong xã hội.
Mười hai là, đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về sở hữu trí tuệ, khai thác tối đa sự hỗ trợ về mọi mặt của các cơ quan sở hữu trí tuệ nước ngoài và các tổ chức quốc tế nhằm nhanh chóng nâng cao năng lực của hệ thống sở hữu trí tuệ quốc gia, bắt kịp với các xu hướng tiến bộ và trình độ quốc tế./.
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển