Thông tin kinh tế đáng chú ý trong tuần (từ ngày 25 đến 31-12-2017)

Gia Bảo (tổng hợp từ TTXVN, vtv.vn)
20:11, ngày 02-01-2018

TCCSĐT - Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.


Chính phủ chốt chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2018 ở mức 6,7%

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2018 tăng 6,7% là một trong những chỉ tiêu đáng chú ý vừa được Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ chính thức nêu lên trong hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương sáng 28-12.

Nói chi tiết hơn về chỉ tiêu trên, Phó Thủ tướng cho biết, kế hoạch được Chính phủ ra là khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản tăng 3,0%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,7%, khu vực dịch vụ là 7,4%. Trước đó, Quốc hội đã giao chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2018 là 6,5%-6,7%.

Về tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, Quốc hội trước đó cũng thống nhất chỉ tiêu này tăng 7-8%. Tuy nhiên, Phó Thủ tướng Chính phủ cho biết, Chính phủ đã đề ra chỉ tiêu tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 8-10%. Trong số này, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản dự kiến đạt 36-37 tỷ USD. Ngoài ra, theo Phó Thủ tướng, chỉ tiêu doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2018 là 135.000 đơn vị.

Về tài chính, ngân sách Nhà nước, Phó Thủ tướng Chính phủ nêu kế hoạch trong năm 2018 sẽ tăng thu 3% so với dự toán Quốc hội giao. Trong tháng 11, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách Nhà nước năm 2018 với tổng số thu là 1.319.200 tỷ đồng. Cũng về lĩnh vực này, Phó Thủ tướng nêu kế hoạch chi đầu tư phát triển đạt 26% tổng chi ngân sách Nhà nước, giải ngân chi đầu tư công đạt 100% dự toán Quốc hội giao. Tỷ trọng chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách theo kế hoạch ở mức 64,1%. Dư nợ công trong năm sau dự kiến ở mức 63,9%GDP.

Nói về nhiệm vụ, giải pháp trong năm tới, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh việc tăng cường kỷ luật tài chính ngân sách trong đó có yêu cầu tiết kiệm chi ngân sách, đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm và chấn chỉnh bất cập trong các dự án BOT.

Phó Thủ tướng cũng nhắc tới tới yêu cầu tập trung cải cách thủ tục hành chính, tạo chuyển biến về môi trường kinh doanh, thường xuyên đối thoại xử lý phản ánh kiến nghị của doanh nghiệp, người dân…

Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng Thành phố Hồ Chí Minh

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu nhằm phát triển vùng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một vùng đô thị lớn, phát triển năng động, bền vững; có vai trò, vị thế quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, hướng tới quốc tế; phát triển vùng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một vùng kinh tế hiện đại, trung tâm kinh tế lớn của cả nước, khu vực Đông Nam Á; trung tâm thương mại-tài chính, trung tâm nghiên cứu khoa học-dịch vụ; trung tâm công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chuyên sâu với trình độ chuyên môn hóa cao; trung tâm văn hóa, giáo dục-đào tạo, khoa học công nghệ và y tế chất lượng cao trong khu vực Đông Nam Á.

Bên cạnh đó, phát triển không gian vùng theo hướng cân bằng bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu; liên kết vùng với khung hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị hạt nhân, trung tâm tri thức, trung tâm kinh tế tổng hợp đa chức năng hiện đại ngang tầm với các đô thị trong khu vực Đông Nam Á.

Vùng Thành phố Hồ Chí Minh là vùng đô thị lớn có tỷ lệ đô thị hóa cao, chất lượng sống tốt, vùng phát triển kinh tế năng động có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững; có vai trò, vị thế chiến lược trong khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương có sức cạnh tranh cao trong nước, quốc tế; là trung tâm giao thương quốc tế của vùng Nam Bộ, cả nước, đầu mối liên kết các vùng kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng Tây Nguyên, vùng duyên hải Nam Trung Bộ; là trung tâm công nghiệp, công nghệ cao, công nghiệp chuyên sâu, trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ chất lượng cao tầm quốc gia, khu vực; trung tâm du lịch văn hóa lịch sử, du lịch rừng cảnh quan tầm quốc gia; là trung tâm văn hóa, thể thao, giáo dục-đào tạo, trung tâm nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của quốc gia, khu vực; trung tâm nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp chuyên canh của vùng Nam Bộ và cả nước...

Theo quy hoạch, phạm vi vùng Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính Thành phố Hồ Chí Minh và bảy tỉnh lân cận là Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Nai, Tiền Giang. Tổng diện tích toàn vùng khoảng 30.400km2.

Dự báo đến năm 2030, dân số khoảng 24-25 triệu người, trong đó dân số đô thị khoảng 18-19 triệu người, dân số nông thôn khoảng 6-7 triệu người; khoảng 18-19 triệu lao động. Tỷ lệ đô thị hóa khoảng 70-75%.

Theo định hướng phát triển không gian vùng, tiểu vùng đô thị trung tâm có tốc độ, tỷ lệ đô thị hóa cao; nổi bật với các thế mạnh về công nghiệp công nghệ cao, chuyên sâu, đào tạo, y tế, đầu mối giao thương kết nối với quốc tế; phát triển không gian về phía Đông và Đông Bắc, xây dựng mô hình đô thị nén, thích ứng với biến đổi khí hậu...

Thành phố Hồ Chí Minh với vị thế là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, là đô thị hạt nhân của vùng, có vai trò liên kết, hỗ trợ các đô thị trong vùng cùng phát triển; là trung tâm giao thương quốc tế của vùng, quốc gia; trung tâm văn hóa, tri thức sáng tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, công nghiệp công nghệ cao tầm khu vực; trung tâm du lịch, tài chính-thương mại và dịch vụ logistics tầm quốc tế.

Tiếp tục gia hạn cho vay vốn bằng ngoại tệ đến hết 31-12-2018

Ngày 27-12, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 18/2017/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú. Quy định này được thực hiện đến hết ngày 31-12-2018.

Theo đó, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động xem xét quyết định cho khách hàng là người cư trú vay vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn ở trong nước nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu để trả nợ vay.

Thông tư nêu rõ, khi được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài giải ngân cho vay, khách hàng vay phải bán số ngoại tệ vay đó cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho vay theo hình thức giao dịch hối đoái giao ngay (spot), trừ trường hợp nhu cầu vay vốn của khách hàng để thực hiện giao dịch thanh toán mà pháp luật quy định đồng tiền giao dịch phải bằng ngoại tệ. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-2018.

Nhìn lại kinh tế thế giới 2017: Đồng loạt khởi sắc trên toàn cầu

Trái ngược với tình hình địa-chính trị thế giới, bức tranh kinh tế toàn cầu năm 2017 được đánh giá khá tích cực. Từ đầu tàu kinh tế thế giới cho tới các nước phát triển và mới nổi, các hoạt động kinh tế đều được ghi nhận khả quan hơn so với dự báo ban đầu.

Quyết định của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và nhiều tổ chức tài chính khác trên thế giới đồng loạt nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu lên 3,7% hoặc 3,6%, cao hơn nhiều so với con số 3,2% đạt được trong năm 2016, đã phần nào khẳng định sự phục hồi mạnh mẽ của kinh tế thế giới trong năm qua. Có thể thấy, chưa khi nào kể từ khi bùng phát cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu 2008 - 2009, các nền kinh tế lớn thế giới lại đồng thời phát đi dấu hiệu lạc quan như hiện nay, bất chấp tác động của những yếu tố bất lợi như xu thế gia tăng bảo hộ thương mại toàn cầu.

Không chỉ Mỹ, Trung Quốc, mà châu Âu, Nhật Bản, những nền kinh tế vốn được xem có tốc độ tăng trưởng èo uột trong nhiều năm qua, cũng đã bứt phá và trở thành động lực thúc đẩy kinh tế toàn cầu khởi sắc. Với kết quả 3 quý liên tiếp đạt tăng trưởng từ 3% trở lên và dự báo quý IV ở mức tương tự, quyết định của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nâng lãi suất cơ bản 3 lần liên tiếp trong vòng một năm, cho thấy mức độ tự tin của nền kinh tế Mỹ. Tỷ lệ thất nghiệp 4,1% trong tháng 11-2017, mức thấp nhất trong 17 năm qua, càng chứng tỏ nền kinh tế đầu tàu này đang vận hành tốt.

Chủ tịch FED Janet Yellen, trong cuộc họp báo cuối cùng trước khi kết thúc nhiệm kỳ vào tháng 2 tới, thậm chí còn lạc quan rằng thị trường lao động tiếp tục khỏe mạnh, tốc độ tạo việc làm mới giữ ở mức ổn định, cơ hội cho người lao động và thúc đẩy tiền lương sẽ là những yếu tố chắc chắn để Mỹ tiếp tục lộ trình tăng lãi suất trong năm 2018.

Việc Trung Quốc duy trì mức tăng trưởng 6,9% trong cả 3 quý đầu năm nay, vượt mục tiêu 6,5% mà chính phủ đặt ra, là yếu tố quyết định để IMF nâng mức dự báo tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này trong lần thứ 4 liên tiếp, lên 6,8% trong năm nay và 6,5% năm 2018.

Giới phân tích cho rằng kinh tế Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng như hiện nay là nhờ chính sách tiền tệ thận trọng cũng như chính sách tài khóa chủ động và hiệu quả. Thay vì điều chỉnh lãi suất hay tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã tập trung nhiều hơn vào các hoạt động thị trường mở trong năm nay để quản lý thanh khoản.

Động lực kinh tế mạnh đã giúp dòng chảy vốn ổn định và cân bằng hơn, nhờ đó dự trữ ngoại hối tăng tháng thứ 10 liên tiếp, đạt 3.119,3 tỷ USD vào cuối tháng 11.

Tại châu Âu, những rủi ro về địa-chính trị suy giảm phần nào cùng với sự thoái trào của chủ nghĩa dân túy cực đoan trong các cuộc bầu cử gần đây đã khiến giới đầu tư tin tưởng vào thị trường này hơn.

Mặc dù cuộc đàm phán đưa Anh ra khỏi Liên minh châu Âu vẫn được xem là yếu tố chi phối hoạt động kinh tế nói chung, song quyết định của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức thấp kỷ lục và thông báo thu hẹp quy mô chương trình mua trái phiếu chính phủ xuống còn một nửa, 30 tỷ euro (35 tỷ USD) từ tháng 01-2018, cho thấy “Lục địa già” đã thoát khỏi tình trạng tăng trưởng yếu ớt.

Tăng trưởng GDP của cả EU được dự báo là 2,3% và của Khu vực đồng tiền chung (Eurozone) là 2,2%, mức cao nhất kể từ khi khu vực này rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công năm 2008.

Lạm phát dù vẫn thấp, song với 7 quý tăng trưởng liên tiếp tính đến quý III vừa qua (đạt 1,4%), nền kinh tế Nhật Bản được ghi nhận có chuỗi tăng trưởng quý dài nhất trong vòng hơn 1 thập kỷ và điều này chính là yếu tố cho thấy nền tảng kinh tế của đất nước “Mặt trời mọc” đang phát triển vững chắc.

Với “xứ sở Bạch Dương”, giá dầu thô tăng trở lại và ổn định ở mức 50-60 USD/thùng sau thời kỳ lao dốc đã đẩy nền kinh tế thoát khỏi giai đoạn đen tối. Bất chấp lệnh cấm vận của Mỹ và phương Tây, tốc độ tăng trưởng của Nga vẫn vượt mọi dự báo.

Quyết định của Ngân hàng Trung ương Nga hạ lãi suất cơ bản lần thứ tư trong năm 2017 và nâng mức dự báo tăng trưởng GDP từ 1,3-1,8% lên 1,7-2,2%, đồng thời giữ nguyên dự báo tăng trưởng trung hạn 1,5-2%, là minh chứng rõ nhất cho thấy kinh tế Nga có bước phát triển khá tích cực.

Các nền kinh tế thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tiếp tục đóng góp vào sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Sau 2 năm năm vận hành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, nhờ sự hội nhập ngày càng lớn và công cuộc cải cách không ngừng, ASEAN đang trở thành một trong những khu vực phát triển năng động nhất với mức tăng trưởng trung bình toàn khối được ghi nhận là 5,3% trong quý III-2017, cao hơn so với con số 5% của quý II.

Cùng với những yếu tố thuận lợi từ hoạt động kinh tế, thị trường chứng khoán toàn cầu cũng trải qua một năm đầy thu hoạch. Điển hình là thị trường chứng khoán Mỹ liên tục phá vỡ các kỷ lục, trong đó chỉ số Dow Jones lần đầu tiên trong lịch sử vượt đỉnh 24.000 điểm. Chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản lập kỷ lục tăng 16 ngày liên tiếp lên mức cao nhất trong 21 năm, đạt 21.805,17 điểm.

Giới phân tích nhận định chắc chắn có nhiều yếu tố quyết định đà tăng trưởng chứng khoán, song không thể phủ nhận sự đồng bộ trong tăng trưởng kinh tế toàn cầu là nhân tố quyết định cho sự thăng hoa này.

Gần 10 năm sau sự sụp đổ của thị trường cho vay thứ cấp ở Mỹ, dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong gần một thế kỷ qua, kinh tế toàn cầu đang trải qua giai đoạn thuận lợi nhất, khởi sắc nhất.

Giới chuyên gia cùng các thiết chế kinh tế uy tín hàng đầu đều dự báo đà thuận lợi này có thể kéo sang năm 2018, giúp kinh tế thế giới duy trì tăng trưởng ổn định trong ngắn hạn, với mức tăng trưởng có thể lên tới 3,7-4% vào năm sau.

Đầu tư toàn cầu và tiêu dùng cá nhân tiếp tục xu thế tăng cùng với tâm lý lạc quan của thị trường được cho là động lực giúp duy trì đà tăng trưởng trong năm tới. Tuy nhiên, không ít thách thức vẫn đi kèm, chủ yếu xuất phát từ việc các biện pháp nới lỏng tiền tệ để kích thích tăng trưởng sẽ tiếp tục bị siết chặt hơn trong năm 2018, trong khi xu hướng bảo hộ mậu dịch gia tăng có thể kéo theo các rào cản thương mại gây bất lợi cho tăng trưởng.

Bên cạnh đó, những biến chuyển tại thị trường Mỹ sau khi chính sách cải cách thuế mới có hiệu lực cùng xu hướng tăng giá của đồng USD và tăng trưởng của Trung Quốc chậm lại… cũng sẽ là những yếu tố tác động tới bức tranh kinh tế thế giới trong năm 2018.

Ngân sách của Liên hợp quốc tiếp tục bị cắt giảm giai đoạn 2018 - 2019

Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 24-12 đã thông qua ngân sách trị giá khoảng 5,396 tỷ USD trong giai đoạn 2018 - 2019, thấp hơn so với con số 5,4 tỷ USD được Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đề xuất.

Trước đó, ông Guterres đã đề xuất mức trần ngân sách giai đoạn 2018 - 2019 của Liên hợp quốc là 5,4 tỷ USD, giảm 200 triệu USD so với ngân sách giai đoạn 2016 - 2017. Như vậy, mức ngân sách vừa được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua giảm 285 triệu USD so với ngân sách của hai năm trước đó. Ngân sách hoạt động của Liên hợp quốc hoàn toàn tách biệt với ngân sách phục vụ cho việc gìn giữ hòa bình, vốn đã bị cắt giảm 600 triệu USD trong năm nay dưới sức ép của chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump.

Mỹ, nước đóng góp tài chính số một cho ngân sách của Liên hợp quốc, đã bày tỏ sự ủng hộ đối với quyết định giảm ngân sách trên của Đại hội đồng Liên hợp quốc, cho rằng đây là mộc bước đi đúng hướng. Trước đó, Mỹ đã nhiều lần bày tỏ mong muốn thể chế đa phương lớn nhất hành tinh này cắt giảm ngân sách khi Tổng thống Trump từng nói rằng phần đóng góp của Mỹ vào ngân sách của Liên hợp quốc là "không công bằng".

Ngân sách của Liên hợp quốc được xây dựng trên cơ sở đóng góp của các quốc gia thành viên. Tỷ lệ đóng góp được thông qua tại Đại hội đồng Liên hợp quốc căn cứ vào chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân trong giai đoạn 10 năm, thu nhập bình quân đầu người và nợ nước ngoài. Mỹ hiện là quốc gia đóng góp nhiều nhất cho ngân sách của Liên hợp quốc với tỷ lệ trên 20%./.