Phương pháp tiếp cận và lý luận nghiên cứu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Phương pháp tiếp cận nghiên cứu thời kỳ quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
- Cách tiếp cận triết học: Nghiên cứu về thời kỳ quá độ với tư cách là nghiên cứu về một giai đoạn phát triển của xã hội, do đó, trước hết cần phải sử dụng cách tiếp cận triết học. Với cách tiếp cận này, cho phép nhìn nhận xã hội như một cơ thể hoàn chỉnh, một hệ thống chỉnh thể luôn vận động và phát triển. Điều căn bản là, phát hiện và nhận thức được các quy luật phát triển xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội, các nghiên cứu trước đây thường chú ý đến tính liên tục của sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Nghiên cứu về thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay cần vừa chú ý đến tính liên tục, vừa đặc biệt chú ý tới tính đứt đoạn, nhảy vọt, rút ngắn và bỏ qua một chế độ xã hội nhất định. Chỉ rõ tính tất yếu khách quan, những tính quy định và điều kiện của sự “nhảy vọt”, sự “rút ngắn”, sự “bỏ qua”,..
Bên cạnh cách tiếp cận triết học đối với hình thái kinh tế - xã hội, cần phối hợp sử dụng cách tiếp cận triết học đối với sự vận động, hình thành, phát triển của các nền văn minh, các nền văn hóa... Qua đây sẽ thấy được xã hội thực sự là một cơ thể sống động với nhiều mối quan hệ phong phú, đa dạng, đan xen lẫn nhau, vừa bao hàm tính phổ biến, vừa bao hàm tính đặc thù của sự vận động xã hội.
- Cách tiếp cận kinh tế: Đây là cách tiếp cận trước đây vẫn được sử dụng khi xem xét phương thức sản xuất với sự vận động của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đề cao công nghiệp cơ khí và coi chế độ công hữu là nguyên tắc của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp cận kinh tế cần xuất phát từ thực tiễn kinh tế đất nước trong mối quan hệ hữu cơ với kinh tế thế giới hiện nay bởi sự hội nhập kinh tế thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Ở Việt Nam, đặc biệt là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quan hệ với nền kinh tế thị trường rộng lớn trên thế giới.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, nảy sinh sự tùy thuộc và phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế các quốc gia, không phân biệt trình độ phát triển và chế độ chính trị; xuất hiện các cộng đồng kinh tế, các khu vực kinh tế; sự phát triển liên thông của các tập đoàn kinh tế mang tính chất phi quốc gia; sự trỗi dậy của một số nền kinh tế của các quốc gia và khu vực… Điều đó, đòi hỏi cách tiếp cận kinh tế đối với thời kỳ quá độ phải đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế. Nền kinh tế của một quốc gia là một tổng thể hoàn thiện nhưng chỉ là một bộ phận hữu cơ trong tổng thể nền kinh tế thế giới không tách rời. Nó vừa có tính độc lập, vừa có tính phụ thuộc. Các nền kinh tế của thế giới tồn tại trong bối cảnh tùy thuộc lẫn nhau. Cách tiếp cận kinh tế trong bối cảnh hiện nay là biện chứng và hoàn toàn khác với cách tiếp cận kinh tế trước đây.
- Cách tiếp cận chính trị: Cho phép ta xem xét một cách tổng thể hệ thống chính trị, các quan hệ chính trị trong thời kỳ quá độ. Đó là, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị; vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền, phân chia quyền lực và thực thi quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; vấn đề xây dựng hệ thống chính trị; vấn đề cải cách hành chính; vấn đề dân chủ; vấn đề quan hệ giữa các tầng lớp, giai cấp, nhóm xã hội trong xã hội; các vấn đề quốc gia, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng… trong thời kỳ quá độ.
Tiếp cận chính trị cho phép nhận thức được bản chất vấn đề giai cấp và đảng cầm quyền; nhất là vấn đề một đảng duy nhất lãnh đạo tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Cách tiếp cận lịch sử: Nhìn nhận xã hội loài người vận động, phát triển như là một quá trình lịch sử tự nhiên, vừa liên tục, vừa đứt đoạn, vừa tiệm tiến, vừa nhảy vọt. Quá trình phát triển của xã hội loài người được hình thành bởi các thời đại, các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau. Tiếp cận lịch sử cho phép ta khu biệt, phân chia giai đoạn, phân kỳ. Qua đó, nhận thức về từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng thời đại với đặc trưng, tính chất, nội dung, mục đích, động lực. Trên cơ sở sự nhận thức này, dự báo sự xuất hiện của các giai đoạn, các thời kỳ tiếp theo với những đặc trưng, tính chất, nội dung, mục đích và động lực của nó. Ở đây là dự báo và xây dựng kế hoạch phát triển về từng giai đoạn của thời kỳ quá độ cũng như toàn bộ quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta.
Ở nước ta, tiếp cận lịch sử sẽ cho ta nhận thức được quá trình phát triển của xã hội Việt Nam trong lịch sử, những quy luật của sự vận động của lịch sử nước ta; nắm bắt được những bài học, kinh nghiệm lịch sử dân tộc từ đó nhận diện được những bước tiến “nhảy vọt”, “bỏ qua”, “sự phát triển rút ngắn” những giai đoạn nhất định đã từng diễn ra trong lịch sử dân tộc; nhận thức được đúng xuất phát điểm của thời kỳ quá độ; nhận diện thực trạng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa của nước ta trong giai đoạn hiện nay…
Do tính chất và đặc trưng của thời kỳ quá do đó đê nghiên cứu nó cần thực hiện các phương pháp tiếp cận đa dạng, liên ngành, tích hợp. Vì vậy cùng với các cách tiếp cận cơ bản nêu trên, trong quá trình nghiên cứu, nhiều trường hợp để nhận thức đầy đủ, toan diện về thời kỳ quá độ cần phối hợp sử dụng các cách tiếp cận: Dân tộc học, Xã hội học, Văn hóa học, Nhân học…
Về các khái niệm thời kỳ quá độ và bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ là thời kỳ chuyển biến từ trạng thái xã hội này sang trạng thái xã hội kia, là thời kỳ chuyển biến từ xã hội cũ sang xã hội mới - từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa.
Có hai cách hiểu khác nhau về thời kỳ quá độ. Cách thứ nhất là chỉ có thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Cách thứ hai là lên chủ nghĩa xã hội có thể từ nhiều xuất phát điểm khác nhau. Có thể từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nhưng cũng có thể từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với Việt Nam, thời kỳ quá độ là thời kỳ chuyển biến từ xã hội chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, sự quá độ ở Việt Nam là từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa lên xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
Có rất nhiều tranh luận khác nhau về tên gọi xã hội chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhiều người cho rằng, C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ đề cập tới vấn đề “thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội cộng sản chủ nghĩa” chứ không nói “thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa”. Trong lý luận của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội được xem là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản và thời kỳ quá độ là giai đoạn chuyển đổi từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa xã hội là một giai đoạn quan trong trong thời kỳ quá độ. Có thể mô hình hóa là: Thời kỳ quá độ - chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Trước đây, trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta thường nói “bỏ qua chủ nghĩa tư bản”, “bỏ giai đoạn tư bản chủ nghĩa” hoặc “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng năm 1991, Đảng ta mới nói "bỏ qua chế độ tư bản". "Bỏ qua chế độ tư bản" nghĩa là như thế nào?
Có người hiểu bỏ qua chế độ tư bản hay bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là bỏ tất cả, không tiếp thu, kế thừa bất kỳ cái gì của chủ nghĩa tư bản.
Đại hội IX, Đảng ta khẳng định "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại"(1).
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là cái dẫn đến sự thay đổi các quan hệ sản xuất và từ đó kéo theo sự thay đổi các quan hệ xã hội khác. Trong tiến trình phát triển, rõ ràng không thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản xuất, song quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tuy còn tồn tại, còn được sử dụng nhưng không chiếm vị trí chủ đạo và đương nhiên theo đó không có sự xác lập kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Cùng với việc không thể bỏ qua sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì cũng không thể bỏ qua những giá trị nhân văn, văn minh mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được. Do đó, không thể hiểu đơn giản việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua toàn bộ các yếu tố cấu thành chủ nghĩa tư bản, mà phải sử dụng các yếu tố tiên tiến, có giá trị phổ biển để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. V.I.Lê-nin nhấn mạnh rằng, phải dang hai tay để đón lấy cái tốt của nước ngoài (tư bản Tây Âu).
Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lê-nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trước hết, quan điểm của C.Mác về thời kỳ quá độ được thể hiện rất rõ trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôtha. C.Mác cho rằng, “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ quá độ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
Trong Thư gửi K. Smit, Ph.Ăngghen viết: “Các giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa cộng sản - là đáng suy nghĩ, nhưng tôi khuyên ngài: không vội vã, không có những kết luận vội vã, đó là vấn đề khó khăn nhất trong tất cả các vấn đề, vì các điều kiện biến đổi không ngừng”. Với Ph. Ăngghen, thời kỳ quá độ bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, liên tục và biến đổi không ngừng. Xã hội xã hội chủ nghĩa, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, chỉ là giai đoạn đầu của xã hội chủ nghĩa cộng sản, do đó, nó được xem là một giai đoạn của thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy, theo các ông: Thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội chủ nghĩa cộng sản là: Thời kỳ cải biến cách mạng một cách toàn diện và triệt để về kinh tế - xã hội; Tương ứng với thời kỳ quá độ về kinh tế - xã hội là thời kỳ quá độ về chính trị; Nhà nước của thời kỳ quá độ là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản; Thời kỳ quá độ bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, liên tục và biến đổi không ngừng.
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, đặc điểm bao trùm của thời kỳ quá độ chính là xã hội quá độ, bao gồm trong đó sự hiện diện những dấu vết, những bộ phận của xã hội cũ (tư bản chủ nghĩa) ở mọi lĩnh vực đời sống xã hội; đồng thời, là sự xuất hiện và hình thành những nhân tố của xã hội mới (xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa).
Về đặc điểm kinh tế, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, mặc dù giai cấp tư sản đã bị lật đổ nhưng chế độ tư hữu vẫn tồn tại và việc cải tạo, đi đến xóa bỏ chế độ tư hữu là một quá trình dần dần và lâu dài, có thể là rất lâu dài. Về đặc điểm chính trị, trong nhiều tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản là thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ là cải biến xã hội tư bản chủ nghĩa từng bước, trên cơ sở đó hình thành xã hội chủ nghĩa cộng sản. Sau khi giành được chính quyền, giai câp vô sản dùng chế độ dân chủ nhân dân của mình làm phương tiện để cải biến kinh tế, xã hội.
Xem xét sự phát triển của lịch sử nhân loại như một tiến trình tự nhiên bởi sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguyên nhân cốt yếu dẫn đến các cuộc cách mạng xã hội. Trong tác phẩm Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học Ph.Ăngghen, khẳng định, mục đích của cách mạng vô sản là nhằm giải phóng lực lượng sản xuất đã xã hội hóa cao khỏi sự giam cầm của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, là giải thoát những tư liệu sản xuất xã hội khỏi tính chất tư bản chủ nghĩa, từ đó thiết lập quan hệ sản xuất mới chủ nghĩa cộng sản dựa trên chế độ công hữu. Chính điều này, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Vì lẽ đó, các ông nhắc nhở, giai cấp vô sản không được thỏa mãn với trình độ phát triển hiện có của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, với toàn bộ tư bản và công cụ sản xuất mà mình đã tước đoạt được của giai cấp tư sản và phải trên cơ sở hiện có ấy mà phát triển mạnh mẽ số lượng những lực lượng sản xuất. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, hai ông chỉ rõ: giai cấp vô sản sử dụng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản của giai cấp tư sản, để tập trung toàn bộ công cụ sản xuất xã hội vào tay nhà nước của giai cấp vô sản, qua đó có những giải pháp thúc đẩy tăng thật nhanh số lượng lực lượng sản xuất xã hội. Mặc dù vậy, các ông cũng chỉ rõ, việc cải tạo những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác lập quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa phải có lộ trình và được thực hiện một cách từng bước, dần dần và lâu dài.
Với những đặc điểm và nội dung nêu trên, cuộc cách mạng vô sản do giai cấp vô sản thực hiện, sau khi giành chính quyền trực tiếp lãnh đạo nhân dân lao động thực hiện bước quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa thì vấn đề trọng yếu là quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản. Muốn củng cố chính quyền của mình trong thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện, phức tạp với sự phản kháng và trỗi dậy quyết liệt giành lại chính quyền của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản đồng thời với việc xóa bỏ hoàn toàn bộ máy chính quyền của giai cấp tư sản, phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện chính quyền của mình thật sự trong sạch, vững mạnh. Về điều này, trong Lời nói đầu viết cho lần xuất bản thứ ba bằng tiếng Đức tác phẩm Nội chiến ở Pháp, Ph.Ăngghen chỉ rõ: Muốn không để mất một lần nữa quyền thống trị mà mình vừa giành được, giai cấp vô sản, một mặt, phải xóa bỏ toàn bộ bộ máy áp bức cũ từ trước đến nay vẫn dùng để áp bức mình; mặt khác, lại phải đề phòng những đại biểu, viên chức của chính mình bằng cách tuyên bố tất cả những người này không trừ một ai, đều có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào.
Như vậy, theo các nhà kinh điểm của chủ nghĩa Mác, trong thời kỳ quá độ:
- Dù giai cấp tư sản đã bị lật đổ nhưng chế độ tư hữu vẫn tồn tại bởi cơ sở kinh tế - xã hội của sự tồn tại của nó vẫn tồn tại vì vậy việc cải tạo đi đến xóa bỏ, thủ tiêu nó là một quá trình rất lâu dài.
- Do các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại nên quy luật giá trị vẫn hoạt động do đó nó vấn điều tiết lao động và chi phối sản phẩm lao động do đó quan hệ phân phối vẫn nhiều mâu thuần và bất bình đẳng.
- Sau khi nắm chính quyền, giai cấp vô sản dùng chế độ dân chủ nhân dân làm phương tiện cải biến kinh tế, xã hội, xây dựng xã hội mới và trấn áp những thế lực chống đối.
- Nhà nước của thời kỳ quá độ là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản sử dụng nhà nước của mình để thực hiện cải biến xã hội một cách toàn diện và để trấn áp đối với các thế lực thù địch.
- Mục đích quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ là nhà nước phải tập trung mọi nguồn lực, tạo mọi điều kiện để phát triển cho được lực lượng sản xuất mới.
- Giai cấp vô sản phải xây dựng được chính quyền của mình vững mạnh, trong sạch. Đặc biệt, cùng với trấn áp các thế lực chống đối cần xây dựng được đội ngũ cán bộ, “viên chức” của mình thực sự là công bộc của dân, toàn tâm toàn ý phụng sự chế độ. Bởi chính sự thái hóa, biến chất, tham nhũng, cửa quyền của họ khi họ thực thi công vụ sẽ làm suy yếu và tan rã chính quyền cách mạng.
- Giai cấp vô sản phải củng cố được vững chắc vai trò lãnh đạo xã hội của mình. Phải sử dụng một cách hiệu quả nhất quyền lực của mình, nếu mơ hồ về quyền lực chính trị, quyền lãnh đạo xã hội thì giai cấp vô sản sẽ mất vai trò lãnh đạo của mình trong thời kỳ quá độ. Điều này cũng đồng nghĩa, sẽ không diễn ra quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lê-nin về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
C.Mác và Ph.Ăngghen không những bàn về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà còn dự báo khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản đối với một số nước trong những điều kiện nhất định. Ph.Ăngghen gọi đó là con đường phát triển rút ngắn. Những điều kiện cho sự phát triển rút ngắn (tức là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản) mà C.Mác và Ph.Ăngghen nêu ra là cách mạng vô sản đã thắng lợi ở Tây Âu; cách mạng vô sản ở Tây Âu kết hợp với cách mạng ở các nước lạc hậu; và, sự nêu gương và sự ủng hộ tích cực của các nước phương Tây đã làm cách mạng vô sản thành công đối với các nước lạc hậu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Có ý kiến cho rằng, hình như C.Mác và Ph.Ăngghen chưa dự báo con đường phát triển không tư bản chủ nghĩa. Không phải như thế, khi nghiên cứu tình hình kinh tế nước Nga, các ông đã dự đoán khả năng phát triển không tư bản chủ nghĩa. C.Mác cho rằng, công xã nông thôn Nga, bản thân nó đã có mầm mống xã hội chủ nghĩa, vì vậy nước Nga sẽ xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải theo con đường của các nước phương Tây mà bằng cách duy trì chế độ sở hữu công xã, cách quản lý công xã và thực hiện quyền có ruộng đất của nông dân. Theo C.Mác, bản thân chế độ công xã Nga không thể tự nó lớn lên thành chế độ xã hội chủ nghĩa được. C.Mác coi trọng ý kiến của Chernushevski cho rằng, nước Nga có khả năng không trải qua những đau khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa mà vẫn giành được tất cả những thành quả của chế độ ấy bằng cách phát triển những điều kiện lịch sử sẵn có của mình.
Trong bài Bàn về những quan hệ xã hội ở Nga, Ph.Ăngghen dự đoán rằng, chế độ sở hữu công xã ở Nga có khả năng "chuyển lên một hình thái cao hơn mà nông dân Nga không cần phải trải qua giai đoạn trung gian là giai đoạn sở hữu nhỏ tư bản chủ nghĩa. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu… một cuộc cách mạng vô sản thắng lợi xảy ra ở Tây Âu, tạo ra cho người nông dân Nga những tiền đề cần thiết cho sự quá độ như vậy". Ph.Ăngghen nhấn mạnh, muốn cho các nước lạc hậu phát triển lên xã hội xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chủ nghĩa tư bản thì điều kiện tiên quyết là sự nêu gương và sự ủng hộ tích cực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thắng lợi ở phương Tây. Trước hết, phương Tây phải nêu gương, nghĩa là thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, và sau khi thắng lợi thì phải ủng hộ tích cực cách mạng ở các nước lạc hậu. Cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi ở phương Tây sẽ quyết định phương hướng, vạch ra con đường phát triển của các nước lạc hậu. Các tư liệu kinh điểm cho thấy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở một nước nào đó chỉ có thể xảy ra nếu cách mạng vô sản thắng lợi ở Tây Âu.
Tiếp tục tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về con đường phát triển không tư bản chủ nghĩa, V.I.Lê-nin đã phát triển tư tưởng đó. Quan điểm của V.I.Lê-nin về vấn đề này được trình bày rõ ở Đại hội II Quốc tế Cộng sản (tháng 8-1920). Ông viết : "Đối với các dân tộc lạc hậu hiện nay trên con đường giải phóng và sau chiến tranh đã có một bước tiến bộ, mà khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc đó nhất định phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta có cho như vậy là đúng hay không? Chúng tôi cho rằng không đúng". V.I.Lê-nin đặt ra nhiệm vụ: "Phải xác định và chứng minh trên lý luận cho một nguyên tắc đó là: Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa".
Lập luận của V.I.Lên-nin về sự quá độ lên chủ nghĩa cộng sản “không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” là hết sức chặt chẽ, lô gích và rõ ràng. Về mặt lý luận, điều đó hoàn toàn có thể xẩy ra và để tiến lên chủ nghĩa cộng sản không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thì phải “trải qua những giai đoạn phát triển nhất định”. Nhưng với cách nói của V.I.Lê-nin thì đó là một giải thuyết, một nguyên tắc và ông đòi hỏi giới lý luận phải xác định và chứng minh giả thuyết đó, nguyên tắc đó là đúng.
Tóm lại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã dự đoán khả năng các nước lạc hậu phát triển lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chủ nghĩa tư bản và chỉ rõ điều kiện để thực hiện khả năng đó là: chủ nghĩa tư bản đã phát triển lên tới đỉnh cao ở các nước tiên tiến; Cách mạng vô sản đã thắng lợi ở Tây Âu; cách mạng vô sản ở Tây Âu kết hợp với cách mạng ở các nước lạc hậu; Sự nêu gương và sự ủng hộ tích cực của phương Tây đối với các nước lạc hậu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tại sao trong khi quan niệm xã hội loài người phát triển theo trình tự nối tiếp, từ thấp lên cao của các hình thái kinh tế - xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa nghĩa Mác - Lênin lại đồng thời cho rằng, các nước lạc hậu có khả năng bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, tức là phá vỡ trình tự nối tiếp nói trên? C.Mác nêu lên trình độ nối tiếp các hình thái kinh tế - xã hội của toàn bộ lịch sử xã hội, nhưng ông không bao giờ coi trình tự đó là một công thức cứng đờ, bắt buộc đối với bất cứ dân tộc nào. Ở đây cần phân biệt con đường phát triển chung của nhân loại và con đường phát triển cụ thể đặc thù của từng dân tộc. Song, dù con đường phát triển của từng dân tộc có nét đặc thù riêng như thế nào thì sự phát triển ấy cũng phải là một quá trình lịch sử tự nhiên, chứ không thể nào nhảy qua hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ các giai đoạn phát triển tự nhiên của nó. Rõ ràng ở đây, chỉ có thể là một sự phát triển rút ngắn, bỏ qua những mặt, những khía cạnh, những quan hệ nào đó của một giai đoạn phát triển chứ không thể bỏ qua cả một giai đoạn phát triển trong tiến trình phát triển tự nhiên lịch sử.
Trên sách báo mác-xít thường nói tới ba điều kiện để một nước có thể thực hiện sự bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội: Khi trên thế giới phương thức sản xuất bị bỏ qua đã tỏ ra lỗi thời, thối nát; Khi trên thế giới đã xuất hiện phương thức sản xuất mới cao hơn, ưu việt hơn; Khi trong nước có giai cấp tiên tiến có khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng để tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
Nếu những lập luận này là đúng thì rõ ràng cần có sự phân tích, nhận thức một cách nghiêm túc những vấn đề được xem là điều kiện để một nước kém phát triển có thể thực hiện sự bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, như chúng ta thấy, chủ nghĩa tư bản vẫn có khả năng thích nghi với môi trường lịch sử mới một cách nhanh chóng và tốt hơn điều chúng ta có thể ngờ tới - nó đã lợi dụng thành công những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại để tiếp tục tồn tại và phát triển. Trong khi đó, hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu; những nước xã hội chủ nghĩa còn lại chưa bộc lộ rõ những ưu việt của mình so với chủ nghĩa tư bản, chưa vượt được các nước tư bản chủ nghĩa về sự phát triển của lực lượng sản xuất, về mức tăng năng suất lao động và sản xuất tính bình quân đầu người.
Như vậy, vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển đang còn là vấn đề khá phức tạp. Đối với một vấn đề phức tạp như vậy, không thể trả lời vội vàng, hời hợt và giản đơn. Để nghiên cứu vấn đề này, chúng ta cần trở lại những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lê-nin, nhưng chúng ta không chỉ trở lại giản đơn mà phải nhận thức và vận dụng những tư tưởng đó dưới ánh sáng của những điều kiện hiện nay, những kinh nghiệm và nhiệm vụ hiện nay. Để có được luận chứng khoa học về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chúng ta phải xuất phát từ bối cảnh thế giới hiện nay, từ thực tế Việt Nam và giải quyết những vấn đề do thực tiễn Việt Nam và thế giới đặt ra.
(1). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, Hà Nội, 2001, tr.81
Quan hệ Việt Nam - Bulgaria sẽ đi vào chiều sâu, hiệu quả và thiết thực  (27/11/2015)
Chủ tịch nước: Cần lên án hành động gia tăng căng thẳng ở châu Á - Thái Bình Dương  (26/11/2015)
Tạo lập khung pháp lý phù hợp để sắp xếp lại hệ thống báo chí  (26/11/2015)
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phát biểu tại Viện Koerber  (26/11/2015)
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng tiếp các nhà báo ASEAN  (26/11/2015)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Đoàn Tạp chí Cộng sản thăm, làm việc với Đảng Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản Ấn Độ-Mác-xít
- Tổng Bí thư Tô Lâm thăm chính thức Malaysia
- Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên
- Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp lần thứ nhất Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên