TCCSĐT - Ngày 2-10, tại Hà Nội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với Cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam tổ chức Hội nghị “Công bố báo cáo đánh giá giữa kỳ Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo giai đoạn 2006-2010”. Báo cáo đánh giá này được thực hiện từ năm 2008, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - cơ quan đầu mối quản lý, điều phối chương trình.

Báo cáo đánh giá giữa kỳ Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 đã đưa ra một số phát hiện chính và một số khuyến nghị, vừa nhằm cải tiến một cách có hiệu quả việc thực hiện Chương trình này, vừa nhằm định hướng cho các chương trình giảm nghèo trong tương lai.

Các phát hiện chính từ đánh giá giữa kỳ

Một là, mức độ phù hợp: Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 được thiết kế để có thể cung cấp tới đối trượng thụ hưởng các hỗ trợ giảm nghèo với nhiều phương diện. Các mục tiêu đặt ra trong Chương trình cũng nhằm thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006-2010. Tuy vậy, mối liên kết giữa các hợp phần trong Chương trình lại thiếu chặt chẽ, khiến cho Chương trình không thể có được kết quả tổng lực từ các hợp phần riêng lẻ. Các tiếp cận theo kiểu truyền thống từ trên xuống và theo “một công thức chung cho mọi vấn đề” không còn phù hợp cho việc giải quyết các thách thức nghèo đói hiện nay, khi cần phải tập trung hỗ trợ các gói nghèo và các nhóm đối tượng có quy mô nhỏ.

Hai là, mức độ hoàn thành các mục tiêu đề ra: Nhiều mục tiêu đề ra trong khu lộ trình của Chính phủ đang đạt tiến độ như mong đợi, hướng tới hoàn thành mục tiêu đến năm 2010. Tỷ lệ bao phủ đối tượng hưởng lợi trong những năm qua cũng có nhiều tiến bộ. Mặc dù vậy, vẫn còn thiếu tính liên kết chặt chẽ giữa mục tiêu đặt ra với kế hoạch ngân sách được lập và phân bổ, cũng như với giám sát, đánh giá. Ngân sách đầu tư cho Chương trình chưa đạt được mức so với kế hoạch mà Chính phủ đã phê duyệt.

Ba là, hiệu quả và tính kinh tế: Chương trình bao gồm nhiều chính sách, dự án quan trọng trong một chương trình khung, song trong thực tế, các chính sách, dự án thành phần lại nằm dưới quyền quản lý, giám sát của các bộ, ngành, khiến công tác điều phối trở nên khó khăn. Ngoài ra, vẫn còn sự chồng chéo giữa Chương trình và một số chương trình, dự án giảm nghèo khác của Chính phủ. Đây là một hàm ý quan trọng về tính hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực khan hiếm của Chính phủ phục vụ công tác giảm nghèo trong tương lai.

Bốn là, hiệu quả xác định đối tượng: Dưới giác độ đánh giá theo phương pháp đối chiếu, so sánh, Chương trình vẫn còn rò rỉ (nghĩa là vẫn còn một số người không nghèo được tiếp cận các dịch vụ của Chương trình) và chưa đủ bao phủ (nghĩa là vẫn còn một số người nghèo chưa được nhận các dịch vụ của Chương trình). Có nhiều nguyên nhân dẫn tới điều này, song nguyên nhân chính là do hệ thống xác định đối tượng thiếu linh hoạt, không phù hợp với bối cảnh khi tình trạng người dân thoát nghèo rồi lại tái nghèo diễn ra thường xuyên.

Năm là, chất lượng cung cấp dịch vụ: Các khảo sát lấy ý kiến người dân cho thấy, người hưởng lợi đánh giá cao sự hỗ trợ của Chương trình, đặc biệt là hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, y tế và giáo dục. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cơ hội có thể cải tiến hơn nữa, đặc biệt là về chất lượng dịch vụ, sự tham gia của người dân và cách thức truyền thông.

Các khuyến nghị trong ngắn hạn và trung hạn bao gồm: cải thiện hiệu quả việc xác định đối tượng; cải tiến quy trình lập kế hoạch hoạt động, lập ngân sách và giám sát đánh giá thông qua từng bước thực hiện phương pháp quản lý theo kết quả; cải tiến hợp phần hỗ trợ sản xuất của Chương trình theo hướng phù hợp và dễ tiếp cận hơn; giải quyết triệt để thách thức lớn trong công tác nâng cao năng lực, thông qua xây dựng một kế hoạch nâng cao năng lực tổng thể; cải tiến và nâng cao chất lượng các hoạt động truyền thông để đẩy mạnh sự tham gia và năng lực phân cấp trong quá tình triển khai Chương trình. Ngoài ra, cần tập trung mạnh vào các khu vực nghèo, nhất là xây dựng các gói hỗ trợ riêng dựa trên nhu cầu của địa phương để có thể giảm nghèo hiệu quả hơn.

Các khuyến nghị trong dài hạn nhằm đáp ứng được các thách thức trong bối cảnh nghèo đói mới

Công tác giảm nghèo đang bước vào một thời kỳ mới, nơi mà các thách thức về giảm nghèo sẽ nảy sinh khi Việt Nam phấn đấu trở thành nước có thu nhập trung bình. Nghèo đói không còn là hiện tượng dàn trải trên diện rộng, mà tập trung nhiều hơn ở những nhóm dân cư bị tách biệt khỏi môi trường xã hội chung. Đồng thời, trong bối cảnh kinh tế mới, môi trường đô thị mở rộng cùng với các cơ hội việc làm mới có thể dẫn đến nhiều nhóm người bị tổn thương.

Bối cảnh đó đòi hỏi phải thiết kế một chương trình định hướng trong tương lai, một chương trình cần đẩy mạnh hơn nữa các nỗ lực giảm nghèo, đồng thời vẫn cung cấp các dịch vụ bảo trợ xã hội toàn diện cho các đối tượng dễ bị tổn thương để họ không bị rơi lại vào nghèo đói.

Một số khuyến nghị trong thời gian dài hạn đã được đưa ra, cả trong báo cáo đánh giá giữa kỳ và những thảo luận của các bên liên quan trong quá trình tham vấn, như sau:

1. Cần đơn giản hoá và thực hiện hài hoà các chính sách, chương trình giảm nghèo hiện nay. Đây là hướng giải quyết rất cần thiết, vì tình trạng bao phủ của Chương trình hiện nay còn mang tính chắp vá, chi phí quản lý cho cán bộ địa phương còn cao, đặc biệt là trong việc quản lý, vẫn còn nhiều hoạt động riêng rẽ.

2. Cần làm rõ mối quan hệ giữa việc hỗ trợ giảm nghèo có mục tiêu với việc lồng ghép các chính sách, chương trình thường xuyên. Để giải quyết vấn đề này, một trong những công việc quan trọng là giao lại trách nhiệm quản lý các chương trình, ví dụ như y tế, giáo dục, cho cán bộ chuyên trách để các chương trình đó trở thành các chính sách thường xuyên, từ đó giúp làm tăng sự minh bạch và giúp tạo ra định hướng “vì người nghèo” tốt hơn trong hệ thống các chính sách thường xuyên được phổ cập tới toàn dân.

3. Cần nâng cao hiệu quả của các phương pháp xác định đối tượng hiện nay. Việc xác định đối tượng hỗ trợ giảm nghèo chính xác hơn sẽ mang lại tác động lớn hơn đối với đời sống của người nghèo.

4. Cần xây dựng một chiến lược an sinh xã hội tổng thể, toàn diện, phân tách, song vẫn bổ sung cho các hỗ trợ giảm nghèo. Việc xây dựng được hệ thống an sinh trong dài hạn nhằm bảo vệ người dân trước những rủi ro và “cú sốc” về kinh tế - xã hội là trách nhiệm lớn của Chính phủ, và cũng là một thách thức quan trọng đối với các nhà lập chính sách.

5. Cần giới thiệu những phương pháp mới trong hỗ trợ giảm nghèo có mục tiêu, nhằm làm tăng tính tham gia và hiệu quả hỗ trợ. Chẳng hạn, hỗ trợ trọn gói cho huyện và quỹ phát triển cộng đồng; chi trả trực tiếp có điều kiện hoặc gói hỗ trợ thu nhập cơ bản./.