TCCSĐT - Nhân Ngày thế giới về an toàn và sức khỏe tại nơi làm việc ngày 28-4, tại Hà Nội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam tổ chức Hội thảo “Ngày thế giới về an toàn và sức khoẻ tại nơi làm việc và thúc đẩy việc phòng ngừa những nguy cơ, rủi ro về tai nạn lao động tại nơi làm việc”.

Các mối nguy hiểm tại nơi làm việc

Theo một số chuyên gia, căn cứ vào bản chất tác động, về cơ bản, các yếu tố nguy hiểm và có hại trong sản xuất ảnh hưởng đến tình trạng tâm sinh lý và bệnh lý của người lao động được chia thành bốn nhóm yếu tố chính: 1- Các yếu tố vật lý học (tiếng ồn, rung động, vi khí hậu, ánh sáng, bức xạ ion và bức xạ không ion…); 2- Các yếu tố hóa học (bụi các loại, hơi khí độc hại, các chất kích thích, tác nhân gây ung thư, gây đột biến gen…); 3- Các yếu tố sinh vật học (vi trùng, siêu vi trùng, nấm nguyên sinh, trực khuẩn…); (4) Các yếu tố tâm sinh lý (căng thẳng, quá tải thể lực, tính đơn điệu trong công việc…).

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), có khoảng từ 10 đến 25% lực lượng lao động ở các nước công nghiệp và từ 50 đến 70% lực lượng lao động ở các nước đang phát triển phải lao động thể lực nặng nhọc với điều kiện lao động còn nhiều yếu tố bất hợp lý và gây căng thẳng thần kinh, tâm lý.

Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê về tình hình ô nhiễm môi trường lao động của trên 1000 cơ sở sản xuất, tỷ lệ các phân xưởng sản xuất bị ô nhiễm nhiệt chiếm 68%, ô nhiễm bụi chiếm gần 20% và ô nhiễm hơi khí độc hại chiếm 17%, trong đó rất nhiều phân xưởng bị ô nhiễm đồng thời từ 2 yếu tố trở lên. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, các bệnh có liên quan đến tình trạng ô nhiễm môi trường chiếm tỷ lệ khá cao, như: viêm mũi, viêm xoang, viêm phế quản, viêm phổi chiếm 40,26%; các bệnh đường tiêu hóa chiếm 14,35%; bệnh cơ xương khớp chiếm 12%...

Đánh giá rủi ro để quản lý rủi ro cho tốt

Việc đánh giá và nhận diện đúng đắn về rủi ro tại nơi làm việc là một công việc hết sức quan trọng, vì đó là cơ sở cho việc thực hiện công tác quản lý, kiểm soát rủi ro và bảo vệ người lao động.

 Tại Hội thảo, các đại biểu nhấn mạnh, nhiệm vụ của các nhà quản lý là phải quản lý một cách hợp lý rủi ro, tức là: bảo đảm cho công nhân và công chúng được bảo vệ một cách thích đáng; cung cấp các lợi ích chung cho xã hội bằng cách cân bằng lợi ích và rủi ro, thông qua việc tập trung vào giảm thiểu rủi ro thực tế - bao gồm những rủi ro phát sinh thường xuyên và những rủi ro mang đến những hậu quả nghiêm trọng; tạo điều kiện cho sự hiểu biết về các rủi ro, không phóng đại chúng; bảo đảm cho những người tạo ra các rủi ro có trách nhiệm quản lý chúng.
 
Trên nguyên tắc quản lý rủi ro một các hợp lý, có thể thực thi các biện pháp phòng ngừa như sau:
 
Một là, những biện pháp quản lý hành chính (điều mà ở hầu hết các quốc gia đều có nhưng chưa đủ): Thông qua hệ thống pháp luật chặt chẽ, hệ thống tiêu chuẩn đầy đủ, rõ ràng để giúp cho các cơ sở đánh giá, phân loại và quản lý rủi ro trong khuôn khổ của luật pháp. Ở nước ta hiện nay, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, sớm ban hành các văn bản có tính hướng dẫn các cơ sở sản xuất tiến hành việc đánh giá, phân loại rủi ro theo ngành nghề, giúp cho người sử dụng lao động có công cụ để xem xét, đánh giá và thông tin rõ ràng về các mức độ rủi ro của đơn vị mình; xây dựng hệ thống thông tin cảnh báo đầy đủ, hiệu quả; tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản liên quan đến an toàn, sức khỏe và nhất là sớm có chương trình nghiên cứu, đánh giá, ban hành danh mục các bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm mới nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động (ở nước ta hiện mới có 25 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm, trong khi đó, theo danh mục khuyến cáo của ILO năm 2010, có 103 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm) .

Hai là, các biện pháp kỹ thuật, công nghệ: Cần đầu tư đổi mới công nghệ, thay thế công nghệ cũ, lạc hậu chứa đựng nhiều yếu tố, nguy cơ nguy hiểm bằng công nghệ ít ô nhiễm hơn, an toàn hơn, chẳng hạn như thay thế công nghệ xi măng lò đứng bằng công nghệ xi măng lò quay, thay lò hơi đốt than bằng lò hơi đốt dầu... Thay thế việc sử dụng các hóa chất, nguyên, nhiên vật liệu nguy hại bằng các loại ít nguy hại hơn, ví dụ như sử dụng sợi PVA (polyvinyl alcohol) để thay thế sợi aminăng trong sản xuất tấm lợp aminăng - ximăng, không sử dụng benzen làm dung môi... Đối với các dự án đầu tư mới, kiên quyết loại bỏ các dự án sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, công nghệ bẩn...; đầu tư lắp đặt các hệ thống bảo đảm an toàn, lắp đặt các hệ thống kiểm soát ô nhiễm cục bộ nhằm hạn chế tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố, đồng thời lắp đặt các hệ thống thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường hiệu quả cao nhằm giảm thiểu ô nhiễm cho vùng làm việc cũng như khu vực xung quanh.

Ba là, các biện pháp phòng hộ cá nhân: Đây là biện pháp không thể thiếu đối với những nơi mà yếu tố nguy hiểm đã được giảm thiểu tối đa nhưng vẫn chưa bảo đảm an toàn cho người lao động: Ví dụ, phải trang bị bao tai, hoặc nút tai chống ồn cho công nhân vận hành máy nghiền, sàng, máy nén khí..., bao tay chống rung cho công nhân sử dụng máy khoan cầm tay, giầy ủng chống trơn trượt cho công nhân tiếp xúc với dầu mỡ...

Bốn là, các giải pháp y tế: Người lao động cần được khám sức khỏe định kỳ; tập thể dục giữa giờ để giảm thiểu căng thẳng, mệt mỏi. Đồng thời, tăng cường cơ sở vật chất, tài chính cho công các sơ cứu, cấp cứu tại chỗ, tái sản xuất sức lao động nhanh (như bồi dưỡng tại chỗ)./.