Bộ đội phòng không - không quân trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975

Trung tướng, TS KHQS Phương Minh Hòa Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân
21:47, ngày 28-04-2015
TCCSĐT - Ngay sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, nắm bắt thời cơ và quy luật phát triển của chiến tranh, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 21 (năm 1973) xác định phương hướng chiến đấu “đánh cho ngụy nhào” để kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Dưới ánh sáng Nghị quyết 21 của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo các quân chủng, binh chủng và quân dân trên cả hai miền Nam - Bắc chuẩn bị sẵn sàng đón thời cơ Tổng tiến công, thực hiện “đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Sau khi hoàn thành xuất sắc Chiến dịch phòng không đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ vào Thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải Phòng tháng 12-1972, buộc Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên miền Bắc, Bộ đội Phòng không - Không quân đã khẩn trương chủ động chuẩn bị mọi mặt để kịp thời tham gia cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975 trên chiến trường phía Nam. Theo Chỉ thị của Bộ và Quân ủy Trung ương, Bộ đội Phòng không - Không quân có 3 nhiệm vụ cơ bản. Đó là: (1). Tham gia trực tiếp tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng trên các chiến trường. (2). Tổ chức bảo vệ không phận vùng giải phóng. (3). Sẵn sàng đánh địch bảo vệ miền Bắc nếu Mỹ liều lĩnh cho không quân đánh phá trở lại.

Tháng 3-1973, theo Chỉ thị của Bộ, Quân chủng Phòng không - Không quân đã đưa 5 trung đoàn pháo cao xạ và 1 trung đoàn tên lửa phòng không vào miền Nam, thành lập Sư đoàn phòng không 673 làm nhiệm vụ hoạt động tác chiến trên chiến trường Bình Trị Thiên. Cũng trong thời gian này, Quân chủng đã cơ động Sư đoàn phòng không 377 (có 6 trung đoàn PPK) vào hoạt động tác chiến trên chiến trường Tây Nguyên. Chấp hành chỉ thị của Bộ, Quân chủng Phòng không - Không quân đã lần lượt chuyển vào chiến trường miền Nam 50% số trung đoàn PPK, 100% tên lửa tầm thấp A - 72 và số lượng lớn cán bộ để xây dựng lực lượng phòng không trên chiến trường, bảo đảm cho mỗi quân khu có 1 trung đoàn PPK, 1 đại đội tên lửa A - 72 và 1 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7, đồng thời xây dựng lực lượng phòng không của bộ đội địa phương, dân quân du kích trên khắp các địa bàn chiến lược. Với sự chi viện của miền Bắc, lực lượng phòng không của ta trên chiến trường miền Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và vũ khí trang bị, đủ khả năng đánh trả các hoạt động của không quân Mỹ, ngụy.

Chỉ tính riêng 2 năm (1973 - 1974), lực lượng phòng không ba thứ quân của ta trên toàn chiến trường miền Nam đã bắn rơi 124 máy bay các loại của địch, trong đó có 38 máy bay cường kích ném bom, 15 máy bay trinh sát các loại và 6 máy bay vận tải. Riêng tên lửa A-72 vào chiến trường đã bắn rơi 25 máy bay trực thăng của địch. Khi các quân đoàn cơ động chiến lược của Bộ lần lượt thành lập, Quân chủng Phòng không - Không quân đã tổ chức cho mỗi quân đoàn 1 sư đoàn phòng không hoặc tương đương để bảo vệ trực tiếp các hoạt động tác chiến của quân đoàn và binh chủng hợp thành.

Với sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược sáng suốt của Đảng, ngay từ cuối năm 1973, chấp hành Chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Quân chủng Phòng không - Không quân đã nghiên cứu tổ chức Lữ đoàn không quân hỗn hợp 919, gồm không quân chiến đấu, không quân vận tải và không quân trực thăng. Các máy bay của Lữ đoàn không quân 919 đều được ngụy trang sơn phù hiệu Quân giải phóng miền Nam, ngày đêm luyện tập ném bom, thả dù và cơ động bộ đội, luôn sẵn sàng chờ lệnh tham gia tác chiến hiệp đồng quân binh chủng. Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân và chỉ huy Lữ đoàn Không quân 919 đã chủ động khảo sát, nghiên cứu thiết lập đường bay từ miền Bắc vào các sân bay của ta ở vùng giải phóng, như Tà Cơn, Đắc Tô, Tân Cảnh, Lộc Ninh để thực hiện vận chuyển theo yêu cầu của chiến trường miền Nam.

Bộ đội tên lửa phòng không ngày đêm luyện tập cách đánh hiệp đồng binh chủng, chuẩn bị 2 trung đoàn tên lửa với trang bị đồng bộ, khí tài tốt đủ điều kiện sẵn sàng chờ lệnh cơ động chiến đấu.

Bộ đội Ra-đa phòng không cơ động thần tốc chuyển dần thế bố trí vào các tỉnh phía Nam, bảo đảm quản lý không phận tới Đà Nẵng và tổ chức Tiểu đoàn Ra-đa 8, gồm 8 đại đội Ra-đa cơ động vào Nam Bộ, bảo đảm tác chiến trực tiếp cho chiến trường miền Nam.

Bộ đội Phòng không - Không quân ra đời, phát triển từ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã tham gia trực tiếp hầu hết các chiến dịch trên khắp các chiến trường nên đã có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng; hoạt động tác chiến trong chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng. Tuy vậy, trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975, do quy mô quá lớn, không gian tác chiến phòng không - không quân rộng, tính cơ động và biến động rất cao, phải thực hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ khác nhau, nên thành công của Bộ đội Phòng không - Không quân có nhiều, nhưng hạn chế cũng không ít.

Cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975 được thực hiện kế tiếp bằng 3 đòn đánh chiến lược.

- Đòn đánh thứ nhất: Chiến lược tiến công Tây Nguyên với trận mở màn đánh điểm huyệt, đánh chiếm Buôn Ma Thuột và trận then chốt đánh địch phản kích ở Phước An, giữ vững địa bàn Buôn Ma Thuột.

- Đòn đánh thứ hai: Với 2 chiến dịch gối đầu nhau là chiến dịch tiến công Huế và chiến dịch tiến công Đà Nẵng.

- Đòn đánh chiến lược cuối cùng: là Chiến dịch Tổng công kích vào Sài Gòn mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”.

Cả ba đòn chiến lược trên đều tập trung đánh chiếm thành phố. Nhưng do cấu trúc của từng thành phố, đặc biệt do quá trình tan rã của ngụy quân, ngụy quyền, mỗi chiến dịch thực hiện cách đánh độc đáo khác nhau.

Đối với các lực lượng tham gia chiến dịch, đều phải quán triệt sâu sắc quyết tâm và cách đánh của từng chiến dịch để chủ động tổ chức tham gia tác chiến, bảo vệ bộ đội binh chủng hợp thành.

Ở chiến dịch Tây Nguyên, lực lượng phòng không tham gia có Sư đoàn phòng 377, với 5 trung đoàn pháo cao xạ (277, 218, 528, 591, 546) bảo vệ các hoạt động tác chiến, chia cắt địch trên đường 19, 21, 14 và hoạt động tác chiến nghi binh chiến dịch ở Plây Cu, Kon Tum.

Trung đoàn pháo cao xạ 234 bảo vệ đội hình Sư đoàn bộ binh 10 tiến công ở hướng chủ yếu.

Trung đoàn pháo cao xạ 593 (Đoàn 559) bảo vệ đội hình Sư đoàn bộ binh 320 A. Trung đoàn pháo cao xạ 232 bảo vệ pháo binh chiến dịch. Lực lượng phòng không của các sư đoàn luôn đi cùng bám sát quá trình tác chiến. Các phân đội A-72 được bố trí đi cùng với đặc công vào trước, ém sẵn trong thành phố Buôn Ma Thuột.

Như vậy, Bộ đội Phòng không - Không quân hoàn thành tốt nhiệm vụ trong tất cả các giai đoạn tác chiến chiến dịch: Đánh chia cắt bao vây nghi binh, tiến công đánh chiếm Buôn Ma Thuột, đánh địch phản đột kích và truy kích địch rút chạy. Khi các sư đoàn bộ binh hành quân bằng xe cơ giới vận động từ ngoài vào đột kích, đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy trong thị xã Buôn Ma Thuột ngày 11-3-1975, Trung đoàn pháo cao xạ 232 còn cách mục tiêu 2.000m, Trung đoàn pháo cao xạ 593 còn cách 6.500m nên chưa phát huy được hỏa lực bảo vệ trực tiếp. Chỉ có lực lượng súng máy phòng không 12,7 và tên lửa tầm thấp A-72 trong biên chế của các sư đoàn đã đánh trả địch quyết liệt, bảo vệ đội hình tiến công của quân ta.

Ở chiến dịch tiến công Trị Thiên - Huế, rút kinh nghiệm thực tiễn của chiến dịch Tây Nguyên, ta đã chủ động làm đường kéo pháo, đưa pháo cao xạ vào ém sẵn ở ven đô trước khi bộ binh đột kích nên đã bảo vệ hoạt động đánh chiếm Huế rất hiệu quả. Nhưng khi đưa pháo cao xạ thoát ly ở đội hình vào trước, lại làm giảm hỏa lực phòng không bảo vệ bộ binh.

Rút kinh nghiệm chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, đến chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng pháo cao xạ phòng không luôn đi theo đội hình cùng các mũi đột kích vào đánh chiếm nội đô, tổ chức phối hợp cùng các tiểu đoàn làm đơn vị chiến thuật, có tiểu đoàn cao xạ đi trước đội hình, có tiểu đoàn cao xạ đi trong đội hình binh chủng hợp thành. Tổ chức như vậy, lực lượng pháo phòng không luôn bám sát đánh địch trên không, đánh địch ở mặt đất, bảo vệ các binh đoàn chủ lực cơ động thọc sâu trên các hướng, mũi trong suốt quá trình hành quân từ ngoài vào đánh chiếm các mục tiêu quan trọng chiến lược trong các thành phố.

Sau khi mất Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, quân địch bị đẩy vào tình thế tuyệt vọng, suy sụp về tinh thần, tan rã về tổ chức, bế tắc về chiến lược. Theo dõi chặt chẽ diễn biến trên chiến trường, ngày 31-3-1975 Bộ Chính trị khẳng định: “thời cơ lớn đã xuất hiện” và hạ quyết tâm huy động tổng lực thực hiện đòn chiến lược Tổng công kích vào Sài Gòn - Gia Định với phương châm “Thần tốc, táo bạo, chắc thắng”.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, các lực lượng cơ động chiến lược của Bộ từ các hướng thần tốc tiến về hội quân bao vây quanh Sài Gòn. Bộ đội Phòng không - Không quân cũng bắt đầu thực hiện các chuyến bay vận tải thần tốc từ miền Bắc vào Huế và Đà Nẵng và các địa bàn chiến lược.

Ngày 05-4-1975, chuyến bay vận tải đầu tiên mang phù hiệu Quân giải phóng từ miền Bắc vào hạ cánh xuống sân bay Phú Bài. Trong tháng 4-1975, không quân ta đã thực hiện 163 chuyến bay vận tải từ Bắc vào Nam, vận chuyển 120 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật và 6.250 cán bộ, chiến sĩ bổ sung cho chiến trường. Cùng với các lực lượng cơ động chiến lược của Bộ, Bộ đội Phòng không - Không quân cũng nhanh chóng đưa lực lượng vào tham gia trận quyết chiến chiến lược.

Ngày 17-4-1975, Sư đoàn phòng không 367 nằm trong đội hình chiến đấu Quân đoàn 1 từ miền Bắc vào đã tập kết lực lượng ở khu vực Đồng Xoài.

Sư đoàn phòng không 365 cũng từ miền Bắc vào triển khai bảo vệ khu vực duyên hải miền Trung.

Sư đoàn phòng không 375 đang bảo vệ vùng giải phóng Trị - Thiên cũng được lệnh cấp tốc cơ động vào triển khai bảo vệ thành phố Đà Nẵng.

Thực hiện quyết tâm của Bộ Tổng tư lệnh, trong cuộc Tổng công kích vào Sài Gòn - Gia Định đã huy động đầy đủ các quân chủng, binh chủng tham gia. Quân chủng Phòng không - Không quân đã nhanh chóng chuẩn bị cho các binh chủng Không quân, Tên lửa, Ra-đa, Pháo cao xạ vào trực tiếp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Tiểu đoàn 8 Ra-đa, gồm 4 đại đội đã hành quân thần tốc trên đường Trường Sơn và đêm ngày 24-4-1875 đã triển khai trong đội hình quản lý toàn bộ không gian tác chiến chiến dịch. Trong 3 ngày cuối cùng của cuộc Tổng tiến công chiến lược, Bộ đội Ra-đa đã phát hiện 218 tốp máy bay địch, trong đó có 111 tốp bay di tản. Tình báo trên không của Bộ đội Ra-đa phòng không giúp cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh nắm chắc mọi hoạt động trên không của địch, nhất là các tốp máy bay di tản của Mỹ - ngụy để chỉ đạo chính xác hoạt động tiến công. Tiếp theo Tiểu đoàn 8 Ra-đa ở phía trước, Trung đoàn Ra-đa 290 cũng được lệnh chuyển dịch vào phía Nam, triển khai từ Quảng Trị đến Phan Thiết để khép kín toàn bộ trường ra-đa quản lý và bảo vệ vùng trời các tỉnh miền Nam.

Bộ đội Tên lửa cũng nhanh chóng đưa 4 trung đoàn vào chiến trường. Trung đoàn tên lửa 267 trong đội hình Sư đoàn phòng không 375 bảo vệ Đà Nẵng. Trung đoàn tên lửa 275 trong đội hình Sư đoàn phòng không 365 bảo vệ Nha Trang, Cam Ranh, Trung đoàn tên lửa 274 lúc đầu dự kiến làm lực lượng dự bị, được lệnh hành quân theo đường quốc lộ số 1 qua các thành phố lớn, vừa tạo niềm tin cho nhân dân vùng giải phóng, vừa tạo thế răn đe đối với địch. Sau khi khẳng định Mỹ sẽ không dám sử dụng không quân trở lại chi viện cho quân ngụy sắp đến ngày tận số, Trung đoàn tên lửa 274 được lệnh hành quân vào chiến trường miền Đông, chiều ngày 30-4, Trung đoàn 274 đang trên đường hành quân vào Nha Trang thì chiến dịch Hồ Chí Minh giành thắng lợi hoàn toàn.

Trung đoàn tên lửa 263 nằm trong đội hình của Sư đoàn phòng không 673 có mặt ở Trị Thiên từ tháng 3-1975, sau đó tách ra làm lực lượng dự bị tiến sâu vào Mặt trận miền Đông. Ngày 18-4, Trung đoàn tên lửa 263 đã có mặt ở Phước Bình, tới ngày 28-4, Trung đoàn dồn ghép khí tài cho Tiểu đoàn 43 triển khai ở Bến Bàu, sẵn sàng chiến đấu.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, do quán triệt sâu sắc quyết tâm của chiến lược sử dụng không quân trong trận đánh cuối cùng, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã trực tiếp tổ chức chỉ huy biên đội “Quyết thắng”. Có 2 đợt ta sử dụng lực lượng không quân (bằng biên đội 5 máy bay chiến đấu A-37 thu được của địch) để tiến công, làm cho chúng hết sức bất ngờ, hoảng loạn: Đợt 1, ta sử dụng không quân tổ chức mũi tiến công từ trên không bí mật, bất ngờ đánh vào cơ quan đầu não - Dinh Độc Lập (ngày 08-4). Đợt 2, ta sử dụng lực lượng không quân đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất (ngày 28-4), căn cứ quân sự lớn của địch, với mục tiêu kiềm chế sự hoạt động chiến đấu của không quân địch, đập tan những ảo tưởng “tử thủ”, chặn đường rút chạy bằng đường không của Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn. Trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, làm cho địch hoảng loạn, sụp đổ về tinh thần, đánh dấu bước phát triển về nghệ thuật tác chiến của Bộ đội Không quân nhân dân Việt Nam. Trận đánh “táo bạo, bất ngờ” đó của Không quân ta đã góp phần tạo thế cho chiến dịch phát triển nhanh, giành thắng lợi trong thời gian ngắn, ít tổn thất nhất. Thắng lợi của trận đánh đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng không quân, lựa chọn mục tiêu, thời cơ tiến công và nghệ thuật tổ chức phối hợp hiệp đồng tác chiến cùng các lực lượng trong chiến dịch. Những bài học đó vẫn còn nguyên giá trị cần được vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai.

Cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã đi qua 40 năm nhưng còn để lại những bài học kinh nghiệm lịch sử quý báu trong việc tổ chức, sử dụng lực lượng Phòng không - Không quân tham gia tác chiến chiến dịch quân, binh chủng hợp thành quy mô lớn. Đến nay, Bộ đội Phòng không - Không quân vẫn tiếp tục tổ chức đầu tư nghiên cứu, học tập những bài học kinh nghiệm phong phú về tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng Phòng không - Không quân trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975, làm cơ sở vận dụng sáng tạo trong điều kiện mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.