Những vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay về “tự bảo vệ” Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Thiếu tá Đặng Công Thành Học viện Chính trị - Bộ Quốc Phòng
22:41, ngày 20-04-2015

TCCSĐT - Vấn đề “tự bảo vệ” nói chung, “tự bảo vệ Tổ quốc” nói riêng không phải là vấn đề hoàn toàn mới nhưng nhận thức và thực hiện vấn đề này thì luôn có sự phát triển theo từng giai đoạn lịch sử.

Quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng ta về vấn đề tăng cường quốc phòng an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho thấy có sự thống nhất biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ, giữa bảo vệ và “tự bảo vệ” Tổ quốc trong tình hình mới. Quan điểm đó xuất phát từ thực tế Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo luận điểm của V.I.Lê-nin: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ”(1). “Tự vệ” để bảo vệ chính quyền và bảo vệ các thành quả cách mạng đã giành được là một tất yếu khách quan, mang tính chính nghĩa, đó là một trong những vấn đề có tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song, điều quan trọng không chỉ là nhận thức mà còn phải biết cách tự vệ vì như V.I.Lê-nin đã chỉ ra rằng: “không phải cách mạng có thể biết ngay được cách tự vệ”(2).

“Cách tự vệ” là một khoa học và nghệ thuật của cách mạng, cách mạng chỉ có thể đi tới thành công “đến nơi, đến chốn” khi biết cách tự vệ đúng. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh rằng việc giành chính quyền đã khó nhưng giữ, sử dụng chính quyền để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa còn khó hơn nhiều. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự sụp đổ đó là do sai lầm của các đảng cộng sản trong quá trình cải tổ, cải cách, sự mất cảnh giác và “tự làm suy yếu”, mất sức đề kháng từ bên trong của các đảng cộng sản và lực lượng cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù địch. Sự thật ấy minh chứng thêm tính đúng đắn trong luận điểm của V.I.Lê-nin: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta nếu chúng ta không mắc sai lầm, tự đánh đổ mình”(3).

Ở Việt Nam, ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước thế giới về tính tất yếu và chính nghĩa của nhiệm vụ tự bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được. Người nói “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4). Thực tế cho thấy dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đã chủ động lấy sức mạnh nội lực để tự vệ chống lại kẻ thù mạnh hơn rất nhiều lần về kinh tế, quân sự.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải tuỳ tình hình cụ thể mà tìm phương pháp tự bảo vệ cho phù hợp. Người đã chỉ rõ phải dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng, song không tuyệt đối hoá phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng. Tháng 8-1963, trong bài trả lời ông Bớc-sét phóng viên của tuần báo Mỹ người bảo vệ dân tộc và tuần báo An-giê-ri cách mạng châu Phi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói tới việc nhân dân Việt Nam “dùng phương pháp hòa bình để tự bảo vệ”(5). Tuy nhiên, tự bảo vệ không phải là đóng cửa, loại trừ việc sử dụng sức mạnh từ bên ngoài. Người đã chỉ rõ rằng, sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng nhưng không được ỷ lại, dựa dẫm. Thực tế cho thấy, cách mạng nước ta được sự giúp đỡ rất to lớn và hiệu quả của các dân tộc yêu chuộng hoà bình, các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là của các nước xã hội chủ nghĩa. Từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, cục diện thế giới đã có những biến đổi sâu sắc, phức tạp, mau lẹ và khó lường; đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam cũng có những điểm mới. Cùng với quá trình đổi mới đi vào chiều sâu, tình hình trong nước xuất hiện thời cơ lớn và cả những thách thức, nguy cơ mới, có ảnh hưởng lớn tới việc củng cố, tăng cường sức mạnh để tự bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trước thực tế này, phương pháp “tự bảo vệ” Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có sự phát triển mới. Tự bảo vệ Tổ quốc bằng phương thức đấu tranh phi vũ trang ngày càng giữ vị trí quan trọng và phải được mỗi người, mỗi cấp, mỗi ngành và toàn xã hội nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn. Tự bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải bắt đầu từ cơ sở, từ mỗi người dân yêu nước. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX trình Đại hội X khi bàn về tăng cường quốc phòng an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã chỉ rõ “coi trọng nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị”(6).

Có thể thấy trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta thì “tự bảo vệ” được xem như một trong những phương thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và “tự bảo vệ” cũng có nhiều phương pháp. Dưới góc độ này, vấn đề “tự bảo vệ” Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có giá trị thiết thực cả về nhận thức và hành động đối với mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi ngành, mỗi cấp trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. “Tự bảo vệ” Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành ngay trong từng tế bào của xã hội, từ đó mới có thể tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn. Nhưng vấn đề “tự bảo vệ” không phải chỉ đơn giản là làm tất cả những gì để tự mình chống lại mọi sự xâm phạm từ bên ngoài, để giữ lấy những gì mình có. Tự bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới là tự mình phải chăm lo xây dựng, làm cho mình mạnh lên, đồng thời phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tranh thủ “ngoại lực” để tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề “tự bảo vệ” của mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi ngành, mỗi cấp phải hướng vào mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó không chỉ đơn thuần là “tự bảo vệ” chính trị, bảo vệ lợi ích nội bộ mà bao hàm nhiều nội dung, phương thức để góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch.

Để góp phần tự bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ngay từ cơ sở phải chủ động, tích cực phòng, chống “tự diễn biến”, tự làm suy yếu sức mạnh bên trong. Vấn đề đặt ra hiện nay là từng chủ thể phải có ý thức sâu sắc về chống “diễn biến hòa bình” trong lao động, công tác, học tập, sinh hoạt và giao tiếp hằng ngày. Để đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình” có hiệu quả mỗi người cần tự giác, tích cực học tập, nâng cao hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và vận dụng vào thực tiễn để phân biệt đúng, sai; thù, bạn, đối tác, đối tượng… Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức bảo vệ nội bộ, bảo vệ Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa trong mọi phạm vi hoạt động. Mọi người cần phải thấy chống “diễn biến hòa bình” không chỉ là công việc của ngành văn hóa, tư tưởng và cơ quan lãnh đạo mà nó còn là công việc của mỗi người, mỗi cấp, mỗi ngành và của toàn dân.

Cần phải giáo dục một cách khoa học và nghiêm túc để mỗi chủ thể thấy rõ sự cần thiết và biết cách kết hợp chặt chẽ giữa “tự bảo vệ” lợi ích cá nhân, gia đình, đơn vị mình với tự bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. “Tự bảo vệ” của mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi ngành, mỗi cấp chỉ thật sự có ý nghĩa khi mỗi chủ thể biết giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích của họ với lợi ích của dân tộc và Tổ quốc. Để giải quyết tốt mối quan hệ này cần làm cho từng cá nhân hiểu rõ rằng: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: “trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”(7). Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể. Không thể vì lợi ích cục bộ, nhất thời nào đó mà làm tổn hại đến toàn cục; không để xảy ra sơ suất nào đó mà làm cho đối tác hiểu nhầm trở thành đối đầu; cũng không để đối tượng lợi dụng quá trình hợp tác kinh tế để chống phá cách mạng nước ta.

Thực tế cho thấy, còn có một bộ phận cán bộ nhận thức được sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và phải tự bảo vệ từ cơ sở, nhưng họ chỉ nói mà không làm, hoặc làm không có hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này cần phải có biện pháp đi sâu kiểm tra, đánh giá và có chế tài để xử lý những sai phạm, thiếu sót trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong thực hiện nhiệm vụ “tự bảo vệ” từ cơ sở. Ở đây cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cục bộ địa phương chủ nghĩa; thực hành nói đi đôi với làm để giữ nghiêm kỷ cương phép nước trong thực hiện nhiệm vụ tự bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có vai trò rất to lớn và thiết thực. Hiện nay, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đang thực sự là vấn đề nhức nhối, làm suy yếu khả năng tự bảo vệ và sức đề kháng từ bên trong của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Tình trạng đó cùng với “diễn biến hòa bình” sẽ thật sự nguy hiểm, đe dọa đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, đến sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, vấn đề chống quan liêu, tham nhũng, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên cần phải được xem như một nội dung, yêu cầu đặc biệt quan trọng của vấn đề tự bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Hiện nay, sự chống phá của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị, nhất là thực tiễn tình hình căng thẳng gần đây diễn ra trên Biển Đông dẫn đến tư tưởng bi quan về khả năng “tự bảo vệ” Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay của một bộ phận cán bộ và nhân dân. Đó là ý kiến cho rằng nếu chiến tranh xảy ra sẽ là cuộc chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao do kẻ thù tiến hành chống phá cách mạng nước ta, trong khi đó vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự của nước ta còn lạc hậu chưa theo kịp với sự phát triển của nhiều nước nên khả năng chiến thắng là rất thấp. Những ý kiến trên chỉ có thể được khắc phục và niềm tin vào khả năng thắng lợi của “tự bảo vệ” Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được củng cố khi chúng ta làm tốt công tác giáo dục quốc phòng, xây dựng được thế trận lòng dân vững chắc, chỉ cho mọi người thấy rõ những điểm mạnh và cả những điểm yếu chí mạng không thể khắc phục được của kẻ địch khi liều lĩnh, bất chấp đạo lý và luật pháp quốc tế tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta. Đồng thời, chỉ rõ cho người dân thấy rõ những điểm mạnh cơ bản trong khả năng “tự bảo vệ” của mỗi người, mỗi cấp, mỗi ngành và tiềm năng to lớn sẽ trở thành sức mạnh hiện thực khi được huy động. Bên cạnh đó, cần tập trung lực lượng đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, phủ nhận thành tựu to lớn của nhân dân ta trong công cuộc đổi mới, hạ thấp sức mạnh từ bên trong của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội đối với nhiệm vụ tự bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Công tác tuyên truyền giáo dục cần làm cho mọi người thấy rõ những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã tạo nền tảng vững chắc cho sức mạnh tự bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những kẻ cố tình bóp méo, xuyên tạc, phủ nhận sức mạnh đó chỉ là số rất ít, mang nặng hận thù với dân tộc, thường chỉ lợi dụng vào một số tiêu cực, hạn chế trong quá trình phát triển đất nước để phủ nhận tất cả những gì mà chúng ta làm được./.
---------------------------------------------------------

(1) V.I.Lê-nin , Toàn tập, T 37, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 145

(2) Sđd ,T 37, tr 145

(3) V.I.Lê-nin, toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1979, tr. 311

(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, T6, tr.587

(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, T14, tr.145

(6) Văn kiện Đại hội Đảng X, Nxb Chính trị quốc gia, 2006, tr. 109 - 110

(7) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, ngày 25-10-2013