Những bài học trong công tác phòng, chống HIV/AIDS
TCCS - Vấn đề HIV/AIDS luôn luôn được đề cập trong các văn kiện của Đảng, cũng như các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi nói đến nhiệm vụ trong thời gian tới về “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Phòng, chống HIV bằng các biện pháp mạnh mẽ, kiên trì và có hiệu quả”, đồng thời phải không ngừng: “Nâng cao năng lực giám sát, phát hiện và khống chế dịch bệnh, đặc biệt là HIV/AIDS”. Nhìn lại chặng đường 20 năm qua, kể từ khi trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam, có thể rút ra những bài học quan trọng đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS, nhằm tiếp tục thực hiện tốt hơn công tác này trong thời gian tới.
Sớm nhận thức về tính chất đại dịch và nguy hiểm của vấn đề HIV/AIDS
Chỉ thị số 52/CT-TW, ngày 11-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII đã nêu rõ: “AIDS là đại dịch nguy hiểm đang phát triển mạnh trên khắp thế giới. Dự đoán đến năm 2000, bệnh phát triển ở tất cả các nước, nặng nhất ở châu Á”... Đảng và Nhà nước ta sớm nhận thấy nguy cơ của nhiễm HIV/AIDS, coi phòng, chống AIDS là một nhiệm vụ ưu tiên. Đến năm 2005, trước sự gia tăng nhanh chóng những trường hợp nhiễm HIV trên thế giới và ở Việt Nam, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ra Chỉ thị số 54/CT-TW, trong đó nêu rõ: “Trên thế giới, HIV/AIDS đã trở thành đại dịch và là mối hiểm họa đối với nhân loại”. Sở dĩ có được nhận định này là do Đảng ta đã bám sát những thông tin về tình hình nhiễm HIV trên thế giới kết hợp với theo dõi chặt chẽ diễn biến dịch ở nước ta.
Căn cứ theo số liệu của UNAIDS, những năm gần đây, số người nhiễm HIV còn đang sống trên toàn cầu là khoảng 42 - 44 triệu người, phân bố ở khắp các châu lục (chỉ trừ châu Nam Cực). Có thể nói ở đâu có con người cư trú thì ở đấy có mặt HIV. Châu Phi là nơi có số người nhiễm cao nhất (25 triệu người), tiếp theo là vùng Nam Á - Thái Bình Dương (khoảng 7 triệu người)(1). Tuy vậy, Nam Á - Thái Bình Dương hiện được dự đoán sẽ là nơi lây lan HIV/AIDS nhanh nhất trong những năm tới (vì đại bộ phận các nước ở khu vực này là những quốc gia nghèo, dân số đông, sự định hình trong lối sống của thanh niên chưa bền vững; có các vùng sản xuất thuốc phiện nổi tiếng thế giới, đó là “Tam giác vàng” và “Lưỡi liềm vàng”). Điều quan trọng hơn là chúng ta đã nhận thức được tác động xấu của HIV/AIDS đối với sự phát triển của giống nòi, sức khỏe của nhân dân, đến sự phát triển kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực: an ninh lương thực, an ninh chính trị, an ninh tài chính, nghèo đói...
Ở Việt Nam ảnh hưởng của HIV/AIDS đến tuổi thọ trung bình, hoặc sự kiệt quệ giống nòi chưa rõ rệt ở mức toàn xã hội như ở một số nước châu Phi, nhưng ảnh hưởng ở mức độ gia đình thì đã khá rõ. Cách đây mười năm khi chưa áp dụng điều trị bằng ARV rộng rãi, trong một số gia đình có người nhiễm HIV/AIDS ở những địa phương có tỷ lệ nhiễm HIV cao trong dân cư như Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Mình và một số địa phương khác, cơ cấu gia đình đã bị đảo lộn: gia đình chỉ còn hai thế hệ ông bà và cháu (bố mẹ các cháu đã chết vì AIDS, nhưng các cháu cũng đã bị nhiễm HIV do mẹ truyền và trong một số gia đình các cháu chết trước cả ông bà). Sự đảo lộn cấu trúc gia đình và tuyệt giống hiển nhiên đã hiện diện tại các gia đình này. Căn bệnh này làm giảm một lực lượng lao động đáng kể (85,1% người nhiễm HIV/AIDS có độ tuổi 20 đến 39)(2), tiêu hao một lượng lớn tài chính, đẩy người nhiễm và gia đình vào cảnh nghèo đói (hầu hết những gia đình người nhiễm phải bán của cải và vay nợ để có tiền chăm sóc, điều trị), thay đổi cơ cấu bệnh tật và tử vong... Chính xuất phát từ những thực tế đó, mà Đảng ta nhận thức rằng, HIV/AIDS là đại dịch nguy hiểm; là mối hiểm họa với sức khỏe, tính mạng của con người và tương lai nòi giống của dân tộc. HIV/AIDS tác động nghiêm trọng đến phát triển kinh tế, văn hóa, an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội của quốc gia.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng trong phòng, chống HIV/AIDS
Khi HIV mới xuất hiện, nhiều người chưa nhận thức được tính chất xã hội của căn bệnh này, thậm chí vẫn chỉ cho rằng, đó là một bệnh lây nhiễm đơn thuần như các căn bệnh lây nhiễm khác và công việc phòng, chống bệnh này chỉ là nhiệm vụ đơn thuần của ngành y tế. Nhưng do nhận thức được tính chất xã hội, cũng như sự hiểm họa của bệnh ngay từ đầu, Đảng ta đã nhận thức rằng phòng, chống HIV/AIDS là một công việc của toàn dân, của mọi ngành, mọi cấp và đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng. Chỉ thị số 52/CT-TW đã khẳng định: “Các cấp ủy đảng có trách nhiệm lãnh đạo các đoàn thể nhân dân, các cơ quan chính quyền, các phương tiện thông tin đại chúng làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, kết hợp các hoạt động truyền thông rộng rãi với việc tuyên truyền giáo dục sâu của chi bộ đảng, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở”. Trong Chỉ thị số 54/CT-TW, sự lãnh đạo của Đảng lại được nêu ra một cách toàn diện và cụ thể hơn. Chỉ thị đã khẳng định: “Các cấp ủy đảng và các cấp chính quyền cần xác định rõ phòng, chống HIV/AIDS là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài” .
Trách nhiệm lãnh đạo và thực hiện được nêu ra rất cụ thể trên các mặt công tác như: Thường xuyên theo dõi, phân tích, đánh giá tình hình lây nhiễm HIV/AIDS trong các ngành và địa phương. Làm tốt công tác giám sát dịch tễ học (trong đó có giám sát trọng điểm và giám sát hành vi) để 100% số tỉnh, thành phố có khả năng tự đánh giá và tự dự báo về diễn biến của nhiễm HIV/AIDS tại địa phương. Đây là một trong những chỉ tiêu được vạch ra trong “Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến 2010 và tầm nhìn 2020”. Có kế hoạch thực hiện các giải pháp cần thiết nhằm phòng, chống HIV/AIDS gắn với phòng, chống các tệ nạn ma túy, mại dâm và với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta đề ra chỉ tiêu 100% các đơn vị, địa phương trên cả nước đưa hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trở thành một trong những mục tiêu ưu tiên của chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại các đơn vị và các địa phương. Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát thực hiện.
Chỉ thị số 54/CT-TW nhấn mạnh: “Quyết không để HIV/AIDS phát triển tràn lan thành đại dịch ở nước ta trong thời gian tới”. Điều này đã thể hiện quyết tâm mang tính cam kết chính trị của Đảng đối với công cuộc phòng, chống HIV/AIDS là rất cao. So với việc triển khai Chỉ thị số 52/CT-TW, việc triển khai và quán triệt Chỉ thị số 54/CT-TW đã diễn ra nhanh chóng hơn nhiều, những nhiệm vụ cụ thể được các cấp ủy đảng nêu lên rõ ràng và sát hợp với tình hình địa phương. Theo một báo cáo điều tra về triển khai Chỉ thị số 54/CT-TW tại 20 tỉnh/thành phố (năm 2007), việc học tập, quán triệt Chỉ thị này được thực hiện ở tất cả các chi bộ cơ sở; việc cụ thể hóa Chỉ thị thành kế hoạch hành động của địa phương được thực hiện ở 100% các tỉnh, thành ủy; 80% số quận, huyện ủy và 60% số đảng ủy xã, phường. Công tác giám sát việc triển khai và thực hiện có nhiều tiến bộ(3). Nhận thức của các cấp ủy cũng như đảng viên về vai trò lãnh đạo của Đảng trong phòng, chống HIV/AIDS được nâng cao và những nhiệm vụ cụ thể được triển khai gắn liền với chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy vậy, nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên về phòng, chống HIV/AIDS ở một số nơi còn chung chung và hạn chế, nhất là thiếu sự gắn bó chặt chẽ giữa phòng, chống HIV/AIDS với công tác xóa đói, giảm nghèo. Một số nơi, cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến việc thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS; phòng, chống HIV/AIDS chưa trở thành ý thức thường trực trong cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Một số nơi, chưa tiến hành công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên việc thực hiện.
Nhận định đúng và kịp thời tình hình phòng, chống HIV/AIDS cũng như diễn biến của dịch
Nhận định về tình hình phòng, chống HIV/AIDS trong những năm qua ở nước ta, các văn bản chỉ đạo của Đảng đã nhấn mạnh: “công tác phòng, chống HIV/AIDS đã thu được những kết quả nhất định, chúng ta đã kiềm chế được tốc độ gia tăng số người nhiễm HIV/AIDS”. Những kết quả thu được chính là:
- Hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, giúp cho việc phòng, chống HIV/AIDS có cơ sở pháp lý. Năm 2004, Chính phủ đã ban hành “Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020”. Đặc biệt năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật Phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người.
- Việc phòng, chống HIV/AIDS đã được triển khai trên phạm vi cả nước; công tác thông tin, giáo dục, truyền thông chuyển đổi hành vi đã làm cho nhận thức về HIV/AIDS (phương thức lây lan, cách phòng chống....) của người dân, đặc biệt là thanh thiếu niên có nhiều tiến bộ. Việc chống kỳ thị và phân biệt đối xử với những người nhiễm HIV đã được khắc phục một bước và có chuyển biến đáng kể.
- Tổ chức phòng, chống HIV/AIDS đã được hình thành: bộ máy phòng chống HIV/AIDS đã được thành lập từ trung ương đến các cấp địa phương; sự phối hợp liên ngành và sự tham gia của nhiều đoàn thể, tổ chức quần chúng đã làm cho phòng, chống HIV/AIDS trở thành một phong trào rộng khắp.
- Đầu tư tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS, tuy còn ít, nhưng đã có nguồn từ ngân sách nhà nước hằng năm, kết hợp với viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế.
- Công tác xã hội hóa trong phòng, chống HIV/AIDS đã được triển khai khá rộng rãi. Nhiều tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã tham gia tích cực các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS dưới nhiều hình thức phong phú. Những người nhiễm ngày càng được huy động để trực tiếp tham gia phòng, chống HIV/AIDS.
- Sở dĩ nhận định “kiềm chế được tốc độ gia tăng số người nhiễm HIV/AIDS” là vì, tuy số tích lũy nhiễm mới HIV/AIDS ở nước ta còn tiếp tục tăng, nhưng so với nhiều nước khác trong khu vực thì tỷ lệ dân cư bị nhiễm vẫn ở mức thấp (0,23% năm 2003 và 0,28% năm 2009)(4) và còn tập trung trong các nhóm nguy cơ cao. So với những dự đoán của các tổ chức quốc tế về số người nhiễm HIV ở Việt Nam qua từng thời kỳ (ví dụ, năm 2000 là 500.000 người) thì con số người nhiễm thực tế của Việt Nam luôn ở mức thấp hơn(5). Trên thực tế, trong một số năm gần đây đồ thị nhiễm HIV mới hằng năm có chiều hướng không tăng hoặc giảm, không tăng vọt như trước đây (năm 2009 số nhiễm mới trong cả nước giảm 2.048 trường hợp so với 2008)(6). Điều này chứng tỏ trong những năm qua chúng ta đã có những hoạt động rất tích cực phòng, chống HIV/AIDS. Nếu so với một số nước trong khu vực thì tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS trong dân cư ở nước ta còn thấp hơn. Ví dụ: Thái Lan có 64 triệu dân, nhưng số tích lũy người nhiễm từ khi phát hiện trường hợp đầu tiên đến nay đã lên đến 1.092.327 người(7).
Tuy đạt được một số kết quả, nhưng Đảng ta vẫn nhận định “tình hình lây nhiễm HIV/AIDS vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp”, “Bệnh dịch HIV/AIDS tiếp tục gia tăng”(8). Sở dĩ như vậy là do:
Một là, số người nhiễm HIV vẫn tiếp tục gia tăng: Đến 31-3-2006(9), tích lũy số HIV từ năm 1990 là 106.288; tích lũy số AIDS là 17.829; tích lũy số chết do AIDS là 10.378. Nhưng đến ngày 30-6-2010, cả nước có 176.436 người nhiễm đang còn sống (số được báo cáo), trong đó có 41.239 bệnh nhân AIDS còn sống và đã có 47.466 người chết do AIDS (10).
Hai là, HIV lan rộng ra các địa phương: Năm 1998 tất cả các tỉnh, thành của cả nước đã phát hiện có người nhiễm HIV. Vào năm 2005, khoảng 60% số xã; 90% số huyện đã có người nhiễm HIV (11), đến 2010 số xã và huyện có người nhiễm HIV lần lượt là: 70,51% và 97,53%(12)
Ba là, HIV tiếp tục tăng trong các nhóm có nguy cơ cao: Tỷ lệ những người tiêm chích hê-rô-in bị nhiễm HIV tăng lên nhanh nhất trong giai đoạn 1996 - 2003 (29,35% vào năm 2002 và 2003). Tuy những năm gần đây có giảm (2008: 20,4% và 2009: 18,4%) do áp dụng tích cực các biện pháp giảm tác hại, nhưng vẫn còn ở mức cao và chưa đồng đều ở các địa phương(13). Sau nhóm tiêm chích ma túy là nhóm mại dâm (3% - 4% gái mại dâm bị nhiễm HIV), tỷ lệ này còn cao hơn nhiều ở một số tỉnh như An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long... Điều đáng quan ngại là hiện nay gái mại dâm lại tiêm chích hê-rô-in. Tỷ lệ nhiễm HIV do quan hệ tình dục không an toàn rất cao ở một số địa phương: Kiên Giang (95,1%), Đồng Tháp (94,7%), Bạc Liêu (92,2%), Cà Mau (88%), An Giang (82,1%)(14). Công tác giám sát về bệnh tật và địa bàn hoạt động mại dâm còn nhiều khó khăn. Nhóm nguy cơ cao thứ ba là nhóm dân làm ăn di động (lái xe đường dài, lao động ngoại tỉnh như công nhân xây dựng). Qua giám sát hành vi, nhóm người này cũng có một tỷ lệ đáng kể tiêm chích ma túy và quan hệ tình dục không an toàn. Gần đây, đã xuất hiện một nhóm nguy cơ cao thứ tư ở nước ta trong lây lan HIV/AIDS, đó là: những người có quan hệ tình dục đồng giới nam. Theo điều tra, ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có khoảng 20.000 người, Hà Nội có khoảng 10.000, chưa kể các thành phố lớn khác. Do nhận thức đúng tình hình lây nhiễm, đặc biệt là những nhóm nguy cơ cao, Đảng ta đã sớm nêu ra mối quan hệ chặt chẽ giữa phòng, chống HIV với việc giáo dục lối sống cho thanh niên và công cuộc phòng, chống ma túy, mại dâm.
Bốn là, HIV/AIDS bắt đầu lây lan sang những nhóm dân cư khác, đặc biệt là phụ nữ có thai (2009: 0,28%), thanh niên (2009: 0,15%)(15). Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS cũng gia tăng.
Năm là, HIV/AIDS đã gây ra những hậu quả nặng nề về nhiều mặt, đang đe dọa trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người, trật tự an toàn xã hội, đến sự phát triển của đất nước, tương lai của giống nòi. Thể hiện của những hậu quả do HIV/AIDS gây ra chưa thấy rõ ở mức vĩ mô và trên phạm vi cả nước, nhưng đã bắt đầu thấy rõ ở mức độ hộ gia đình, thậm chí ở một số địa phương ở mức độ nhóm dân cư. Tình trạng “nghèo hóa” sẽ xuất hiện đối với những gia đình người nhiễm và họ phải đối phó bằng cách: vay tiền từ họ hàng, người thân (36%); vay từ người cho vay nặng lãi (27,2%); bán tài sản, đất và nhà cửa (26,4%); bớt ăn (28,8%); giảm chi tiêu y tế với các thành viên khác trong gia đình (25,6%); người già đi làm để có thu nhập (17,6%); con cái bỏ học (3,2%)(16).
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một số cấp ủy, nhất là ở địa phương mà trước đây có tỷ lệ nhiễm chưa cao đã chưa thường xuyên coi trọng việc xác định đúng và kịp thời diễn biến của dịch, chỉ dựa trên con số chung chung của toàn quốc nên còn mơ hồ về tình hình nhiễm HIV/AIDS và còn lúng túng, bị động trong việc đối phó.
Đề cao công tác thông tin, giáo dục, truyền thông thay đổi hành vi trong phòng, chống HIV/AIDS
Xác định rõ mục đích của công tác thông tin, giáo dục, truyền thông là nâng cao ý thức của mọi người dân làm cho họ có đủ khả năng nhận thức, hiểu biết và niềm tin trong việc tự bảo vệ mình và giúp người khác có ý thức hơn trong phòng tránh lây nhiễm HIV. Ngoài ra, thông tin, giáo dục, truyền thông chuyển đổi hành vi còn phải tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể xã hội và của mọi người dân đối với nhiệm vụ lãnh đạo và tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS. Xác định đối tượng của thông tin, giáo dục, truyền thông chuyển đổi hành vi là: các cộng đồng dân cư, từng người dân, từng gia đình, nhất là các thanh, thiếu niên và nhóm người có nguy cơ cao lây nhiễm HIV/AIDS. Phải coi trọng việc tiến hành thông tin, giáo dục, truyền thông chuyển đổi hành vi ngay cả với hàng ngũ cán bộ, đảng viên để nâng cao vai trò lãnh đạo và ý thức trách nhiệm trong chỉ đạo phòng, chống HIV/AIDS. Đảng ta đã chỉ rõ: phải đổi mới, đa dạng hóa và đẩy mạnh hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông thay đổi hành vi cả về nội dung lẫn hình thức. Một bài học quan trọng cần rút ra là phải gắn chặt giữa thông tin, giáo dục, truyền thông với chuyển đổi hành vi. Chuyển đổi hành vi không chỉ có nghĩa là thay đổi hành vi của những nhóm nguy cơ cao mà còn có nghĩa là phải thay đổi hành vi từ cán bộ lãnh đạo đến mọi người dân. Người lãnh đạo phải quan tâm đến công tác phòng, chống HIV, đến những người nhiễm HIV, gương mẫu trong chống kỳ thị và chống phân biệt đối xử với người nhiễm.
Bên cạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông chuyển đổi hành vi, việc Quốc hội ban hành Luật Phòng, chống HIV/AIDS đã quy định rõ hành lang pháp lý những quyền lợi của người nhiễm HIV/AIDS đã làm cho việc chống kỳ thị và chống phân biệt đối xử đã có những tiến bộ đáng kể ở nước ta.
Coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS
Chúng ta đã sớm nhận thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề nghiện chích ma túy (hê-rô-in), mại dâm với việc lây lan căn bệnh HIV/AIDS mà bằng chứng cụ thể là nguyên nhân dùng chung bơm kim tiêm khi chích hê-rô-in chiếm đến 60% số người nhiễm và số còn lại phần lớn là do quan hệ tình dục không an toàn. Vì vậy, một số giải pháp trong phòng, chống HIV/AIDS có liên quan chặt chẽ với các giải pháp về chống ma túy và mại dâm. Về mặt luật pháp, tồn tại một thực tế là: khi giải quyết các vấn đề ma túy, mại dâm hay HIV/AIDS, các văn bản quy phạm pháp luật mới chỉ quan tâm và đề cập đến từng vấn đề riêng lẻ, hoặc chống ma túy và mại dâm hoặc phòng, chống HIV/AIDS, mà chưa đề cập cùng một lúc đến cả hai vấn đề trong một khuôn khổ pháp luật. Vì vậy, giải quyết vấn đề này thì không giải quyết được vấn đề kia, và việc giải quyết vấn đề kia lại mâu thuẫn về mặt luật pháp với vấn đề này.
Trong khi đại dịch HIV/AIDS đang gia tăng nhanh chóng, việc bảo vệ những người nghiện chích hê-rô-in và những người có quan hệ tình dục không an toàn không bị nhiễm HIV chính là để bảo vệ cộng đồng trước đại dịch nguy hiểm này. Tất cả các giải pháp đó được gọi là “can thiệp giảm tác hại”. Những giải pháp này cần được thống nhất trên mặt luật pháp, có như vậy mới tạo điều kiện cho phòng, chống HIV/AIDS thắng lợi. Vì vậy, chúng ta cần coi trọng xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Việc ban hành Luật Phòng, chống HIV/AIDS (năm 2006) là một sự kiện quan trọng không chỉ trong lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS mà cả trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nói chung. Chắc chắn đây sẽ là hành lang pháp lý quan trọng để công tác phòng, chống HIV/AIDS đạt được thắng lợi ở nước ta.
Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa công tác phòng, chống HIV/AIDS
Do nhận thức đúng đắn tính chất xã hội của căn bệnh HIV/AIDS, nên xã hội hóa được xem như một nhóm giải pháp quan trọng của phòng, chống HIV/AIDS trong các chỉ thị của Đảng. Nội dung của xã hội hóa trong phòng, chống HIV/AIDS là:
- Phát huy truyền thống tương thân, tương ái, chăm sóc, giúp đỡ của cộng đồng, chống kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS.
- Tạo điều kiện để những người nhiễm bệnh và gia đình họ thấy rõ trách nhiệm, tự giác tham gia tích cực các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Cần nhận thức đúng tầm quan trọng của vai trò những người nhiễm và gia đình họ trong tham gia phòng, chống HIV/AIDS. Tiếng nói của những người nhiễm HIV/AIDS cũng như gia đình họ có sức cảm hóa mạnh mẽ đối với những người cùng hoàn cảnh và những kinh nghiệm của bản thân họ có sức thuyết phục cao trong vận động phòng, chống lây lan HIV/AIDS.
- Khuyến khích các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức phi chính phủ, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia phòng, chống HIV/AIDS.
- Tiến tới thành lập tổ chức xã hội phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam nhằm tập họp mọi lực lượng, tổ chức và cá nhân có tinh thần tích cực trong phòng, chống HIV/AIDS và hướng mọi hoạt động theo những mục tiêu đã đề ra trong Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến 2015 và tầm nhìn 2020.
Có hai khía cạnh cần chú trọng trong xã hội hóa công tác phòng, chống HIV/AIDS:
Thứ nhất, sự cần thiết phải tổ chức việc phối hợp đa ngành trong phòng, chống HIV/AIDS. Huy động sự tham gia của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức, đoàn thể trong xã hội và mọi thành viên cộng đồng vào công cuộc phòng, chống HIV/AIDS. Sự phối hợp liên ngành không chỉ thể hiện ở cấp quốc gia mà còn ở các cấp tỉnh, huyện, xã. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các tổ chức trong hệ thống chính trị phải được tổ chức chặt chẽ, mang lại hiệu quả thiết thực, không chồng chéo và mang tính đồng bộ. Các cấp ủy đảng cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm lãnh đạo việc phối hợp giữa các ban, ngành cùng cấp trong phòng, chống HIV/AIDS, tránh tình trạng khoán trắng cho chính quyền, đặc biệt là các cơ quan y tế thực hiện những nhiệm vụ phòng, chống HIV/AIDS.
Thứ hai, huy động những người nhiễm HIV và gia đình họ trực tiếp tham gia công tác phòng, chống HIV. Hiện nay, ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, số lượng người nhiễm HIV/AIDS ngày càng tăng, có mặt ở hầu khắp mọi nơi, phần đông là người trẻ, đang ở tuổi lao động; tuy mang trong mình một loại virut gây bệnh nguy hiểm nhưng vẫn có thể sống trong một thời gian dài, nếu được điều trị bằng thuốc ARV. Sau khi bị nhiễm HIV, trong quá trình sống, họ tích lũy được nhiều kinh nghiệm để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày. Do hoàn cảnh dẫn đến lây bệnh khác nhau nên những người nhiễm HIV/AIDS sẽ có những mức độ khác nhau trong suy nghĩ, thái độ, hành động khi tham gia phong trào phòng, chống HIV/AIDS. Khi người nhiễm tham gia các hoạt động của phong trào này thì họ dễ dàng chia sẻ kinh nghiệm với nhau để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, trong phòng bệnh và chữa bệnh.
(1) UNAIDS: “2004 report on the global AIDS epidemic.” 4th global report, UNAIDS: “Bệnh dịch AIDS toàn cầu không có dấu hiệu thuyên giảm; số người nhiễm HIV và số người tử vong do AIDS tăng cao nhất từ trước tới nay”, Thông cáo báo chí 25-11-2003
(2) Bộ Y tế: Báo cáo tình hình nhiễm HIV năm 2009,
số 1991/BYT-AIDS, ngày 6-4-2010. Http://www.vaac.gov.vn
(3) Ban Tuyên giáo Trung ương (Dự án 00040232): Báo cáo kết quả nghiên cứu đánh giá triển khai thực hiện Chỉ thị số 54/CT-TW tại 20 tỉnh và thành phố (2007)
(4) Báo cáo tình hình nhiễm HIV năm 2009, số 1991/BYT-AIDS (ngày 6 tháng 4 năm 2010). http://www.vaac.gov.vn
(5) Ban KGTW và Ban cán sự đảng Bộ Y tế: “Báo cáo đánh giá 10 năm thực hiện chỉ thị 52/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, khóa VII, về lãnh đạo công tác phòng chống AIDS. Báo cáo số 62/BC- BCSĐ-BKGTW ngày 27 tháng 4 năm 2005
(6) Bộ Y tế: Báo cáo Công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2009. Http://www.vaac.gov.vn
(7) Somyot Kittimunkong: “Resurgence of HIV/AIDS epidemic in Thailand. Presentation to Vietnamese CCES delegation in Bereau of AIDS, TB & STIs, Department of Disease control, MoPH, Bangkok, Thailand (6 November 2006)
(8) Đảng Cộng Sản Việt Nam: Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương, khóa IX, về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
(9) Bộ Y tế: “Báo cáo tình hàng tháng của Bộ Y tế về tình hình HIV/AIDS”. Báo cáo 3290/BYT-AIDS
(10) Bộ Y tế: Báo cáo Công tác phòng, chống HIV/AIDS 6 tháng đầu năm 2010 và trọng tâm kế hoạch 6 tháng cuối năm 2010. Http://www.vaac.gov.vn
(11) UNDP: “Vietnam achieving the Millennium Development Goals”. August 2005
(12) Bộ Y tế: Báo cáo Công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2009. Http://www.vaac.gov.vn
(13) Bộ Y tế: Báo cáo tình hình nhiễm HIV năm 2009, số 1991/BYT-AIDS (ngày 6 tháng 4 năm 2010). Http://www.vaac.gov.vn
(14) Bộ Y tế: Báo cáo công tác phòng chống HIV/AIDS 6 tháng đầu năm 2010 và trọng tâm kế hoạch 6 tháng cuối năm 2010. Http://www.vaac.gov.vn
(15) Bộ Y tế: Báo cáo tình hình nhiễm HIV năm 2009, số 1991/BYT-AIDS (ngày 6-4-2010). Http://www.vaac.gov.vn
(16) Dự án VIE/98/006 do UNDP và AusAID tài trợ: “Tác động của HIV/AIDS đến tình trạng dễ bị tổn thương và nghèo đói của các hộ gia đình tại Việt Nam.” 8/2005
Về vấn đề đào tạo và sử dụng nhân tài ở nước ta hiện nay  (27/01/2011)
Trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tạp chí Lý luận của Đảng”  (27/01/2011)
Bác bỏ yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông  (27/01/2011)
Lễ trao tặng Huân chương cao quí của Nhà nước Lào  (27/01/2011)
"Quy hoạch phát triển nhân lực y tế giai đoạn 2011 - 2020"  (27/01/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm