Hàng Việt Nam trong “cuộc chiến” với rào cản thương mại quốc tế
Thương mại thế giới hiện nay vận động trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra rất sâu sắc và nhanh chóng, khái niệm, ranh giới giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài đã bị thu hẹp. Các chiến lược phát triển hướng vào xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu không còn giữ nguyên ý nghĩa cổ điển của nó nữa, bởi vì thị trường của mỗi quốc gia đều phải “mở cửa” thông qua việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Cuộc chiến giành giật thị trường giữa hàng nội và hàng ngoại trở nên quyết liệt. Vòng đời sản phẩm được rút ngắn nên việc lựa chọn sản phẩm và tổ chức tốt thị trường trở nên rất quan trọng.
Do sự phát triển của khoa học công nghệ và tiến trình hội nhập, hình thái tổ chức thị trường và phương thức hoạt động thương mại cũng đã thay đổi. Thương mại điện tử đã ra đời và đang có những bước phát triển nhanh chóng. Ngày nay, khái niệm buôn bán không hiểu theo nghĩa đen thuần tuý như trước mà nó bao gồm một phạm vi rộng lớn hơn, bao trùm lên mọi hoạt động kinh tế của các quốc gia, với 4 nội dung cơ bản: hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và các yếu tố thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ. Như vậy, có thể khái quát nền kinh tế thương mại trong thế kỷ XXI như sau: thị trường là toàn cầu, định chế quản lý là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các định chế của các khối kinh tế khu vực, chủ thể kinh doanh chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia.
Sự ra đời và phát triển của WTO là một bước tiến vững chắc cho tiến trình tự do hóa thương mại trên quy mô toàn cầu. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do trình độ phát triển kinh tế không đồng đều, các nước đều duy trì các biện pháp thương mại nhằm bảo hộ nền sản xuất nội địa. Bên cạnh biện pháp bảo hộ bằng thuế quan còn rất nhiều biện pháp phi thuế quan.
Nếu như biện pháp thuế quan rất rõ ràng và dễ dự đoán thì các biện pháp phi thuế quan có thể làm nhiễu tín hiệu chỉ dẫn quyết định của người sản xuất và người tiêu dùng, tín hiệu chỉ dẫn việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế, phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh. Mặc dù về lý thuyết, WTO chỉ thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất nhưng thực tế đã chứng minh rằng các nước không ngừng sử dụng các biện pháp phi thuế quan mới.
Mức độ cần thiết và lý do sâu xa dẫn đến việc bảo hộ sản xuất nội địa của từng nước cũng khác nhau, đối tượng cần bảo hộ cũng khác nhau khiến cho các hàng rào phi thuế quan ngày càng trở nên đa dạng hơn. Có thể sử dụng nhiều biện pháp phi thuế quan để phục vụ một mục tiêu. Mặt khác, một biện pháp phi thuế quan có thể đồng thời phục vụ hiệu quả nhiều mục tiêu khác nhau. Xu hướng chung trong việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước là chuyển từ các biện pháp mang tính chất hạn chế định lượng trực tiếp sang các biện pháp tinh vi hơn như chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, tiêu chuẩn kỹ thuật. Ngoài ra, xu hướng sử dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu gắn với yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và lao động đang nổi lên và được nhiều nước phát triển hậu thuẫn mạnh mẽ.
Khi một biện pháp phi thuế quan được áp dụng trái với quy định của WTO thì có thể coi đây là một hàng rào phi thuế quan (Non Tariff Barrier - NTB). Cần lưu ý là trong thực tế nhiều khi rất khó phân biệt một biện pháp phi thuế quan có phải là một rào cản phi thuế quan hay không.
Ngoài ra, một biện pháp phi thuế quan có thể là hợp pháp trong một giai đoạn nhất định nhưng có thể bị coi là một rào cản phi thuế quan vào một giai đoạn khác.
Khi một biện pháp phi thuế quan gây cản trở thương mại không biện minh được theo tinh thần và các nguyên tắc của WTO, biện pháp này bị coi là một hàng rào phi thuế quan (NTB). Cần phải nhấn mạnh là thuật ngữ “hàng rào phi thuế quan” tuy được sử dụng rộng rãi nhưng là một thuật ngữ rất mơ hồ và không phải là thuật ngữ chính thống được WTO sử dụng. Thật vậy, các văn bản pháp lý của WTO chỉ sử dụng thuật ngữ “biện pháp phi thuế quan” mà không bao giờ nhắc đến hàng rào phi thuế quan cả. Rất thú vị khi thuật ngữ “hàng rào” chỉ được sử dụng có một lần trong các văn bản của WTO, đó là “Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại - TBT ”. Nhưng trong chính Hiệp định, thuật ngữ này không hề được nhắc lại.
Ảnh hưởng của rào cản kỹ thuật ở nước nhập khẩu đối với hàng nông sản là rất lớn. Năm 2002, Nhật Bản tăng yêu cầu về dư lượng thuốc sâu Chlorpyrifos trong rau cải (spinach) từ 0,1 ppm xuống 0,01 ppm, khiến rau cải Trung Quốc xuất khẩu sang Nhật giảm mạnh, từ mức kim ngạch 33,9 triệu USD năm 2001, xuống chỉ còn 14,3 triệu USD năm 2002, và tụt dốc không phanh còn 3,9 triệu USD năm 2003 . Mới đây, TheFishSite News Desk (Mỹ) cho hay trên thực tế, nhiều lô hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam bị các nhà nhập khẩu từ chối vì có dư lượng thuốc kháng sinh cao. Mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam là lúa gạo cũng phải đối mặt với những rủi ro tương tự (Nhật Bản đã từng cảnh báo gạo Việt Nam có chứa Acetarmiprid vào năm 2007). Đối với thị trường EU, Việt Nam là một trong các nước có tỷ lệ sản phẩm bị từ chối nhập khẩu cao nhất.
Giai đoạn 1995 - 2006, các thành viên của WTO đã tiến hành 3.044 vụ kiện chống bán phá giá, 191 vụ kiện chống trợ cấp, 158 vụ điều tra tự vệ đối với hàng hóa nước ngoài. Hầu hết các biện pháp chống bán phá giá mà các nước phát triển áp dụng là để chống lại các thành viên thuộc các nước đang phát triển.
Báo Les Echos (Pháp) đăng bài phân tích dẫn lại số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết: có 1.593 biện pháp bảo hộ mậu dịch đã được áp dụng trên thế giới từ tháng 11-2008 đến tháng 11-2011, trong đó có 1.187 biện pháp phân biệt đối xử đối với các nhà cung cấp nước ngoài. Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại thế giới Pascal Lamy ước tính thiệt hại do các biện pháp bảo hộ mậu dịch trên toàn thế giới lên tới 800 tỷ USD.
Tính đến nay, đứng đầu về số lượng các biện pháp bảo hộ mậu dịch là Argentina với 182 biện pháp, gần đây nhất là các biện pháp hạn chế hàng nhập khẩu từ Anh nhân kỷ niệm 30 năm cuộc xung đột Malvinas.
Còn ở Nga, 172 biện pháp bảo hộ mậu dịch đã được thống kê và nước này đưa ra mục tiêu đến 2020, khoảng 30% số ô tô có trang bị động cơ hay bộ truyền động được sản xuất tại Nga. Ấn Độ cũng đã áp dụng 101 biện pháp bảo hộ và nước này đã phải hoãn dự định mở cửa lĩnh vực phân phối đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào tháng 12 vừa qua. Đối với biện pháp chống bán phá giá, Ấn Độ cũng là nước sử dụng nhiều nhất, với 656 vụ kiện, tiếp đến là Mỹ và EU.
Mặc dù số lượng các vụ điều tra liên quan đến phòng vệ thương mại trên thế giới ngày càng giảm nhưng các vụ kiện phòng vệ thương mại đối với hàng hóa Việt Nam lại có xu hướng ngày càng tăng.
Hoa Kỳ là một trong những nước tiến hành các biện pháp bảo hộ thương mại. Có 7 biện pháp phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp nước ngoài đã được nước này áp dụng kể từ sau Hội nghị G20 vào cuối năm 2008, những hành động này đã gây ảnh hưởng đối với 120 quốc gia. Bởi thế, các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ phải rất cẩn trọng. Chủ tịch Ủy ban Tài chính Thượng viện Mỹ, Max Baucus cho rằng các biện pháp trừng phạt thương mại đã góp phần cứu được 80.000 công ăn việc làm ở Mỹ kể từ năm 2007 đến nay.
Năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, đánh dấu việc hoàn thành cơ bản lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là thành quả của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển và chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.
Việt Nam mỗi năm thiệt hại hơn 14 triệu USD do hàng xuất khẩu bị trả lại. Ông Spencer Henson từ Viện Nghiên cứu phát triển (IDS) cho hay ở 4 thị trường lớn EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc thì Việt Nam là một trong ba nước đứng đầu về số vụ bị từ chối nhập khẩu sản phẩm thủy sản, cao hơn so với các nước nhập khẩu khác, ngoại trừ thị trường Úc. Cụ thể, Việt Nam đứng đầu trong số các nước xuất khẩu sang EU và Hoa Kỳ về số vụ bị từ chối nhập khẩu sản phẩm thủy sản trên 1 triệu USD trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2010, lần lượt khoảng 160 và 380 vụ. Tại thị trường Nhật Bản, trong giai đoạn 2006 - 2010, Việt Nam cũng đứng đầu các nước xuất khẩu về số vụ bị từ chối nhập khẩu sản phẩm thủy sản trên 1 triệu USD, khoảng hơn 120 vụ. Riêng thị trường Úc, Việt Nam đứng thứ 4, sau Indonesia, Ấn Độ và Trung Quốc về số vụ thủy sản bị trả về, gần 350 vụ. Có nhiều nguyên nhân khiến thủy sản của Việt Nam bị trả về, song nguyên nhân chủ yếu là do nhiễm khuẩn. “Ngoài ra, dư lượng thuốc thú y là vấn đề nổi cộm đối với hàng nhập vào EU; các chất gây ô nhiễm khác cũng là vấn đề đối với hàng nhập vào Nhật Bản” - ông Henson nói.
Không chỉ ở Mỹ và Nhật, hàng thủy sản Việt Nam cũng tiếp tục gặp khó khăn tại thị trường Trung Quốc. Cuối tháng 5-2007, Cục Kiểm nghiệm kiểm dịch tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) đã phát hiện chất chloramphenicol vượt quá tiêu chuẩn cho phép (0,10 mg/kg) trong 1 lô tôm nõn đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam của Công ty Nachimex Co. Ltd với trọng lượng 1.150 thùng/13.800 kg. Ngay sau đó, Trung Quốc đã đề nghị Việt Nam tạm thời đình chỉ việc xuất khẩu thủy sản của doanh nghiệp này sang Trung Quốc, đồng thời phía Trung Quốc cũng cho biết muốn khôi phục việc xuất khẩu của doanh nghiệp này phải thông báo trước tình hình kiểm tra có liên quan cho Trung Quốc để họ tiến hành kiểm tra xác nhận.
Xuất khẩu mật ong Việt Nam phụ thuộc lớn vào thị trường Mỹ vì gần 90% xuất sang thị trường này. Năm 2012 là một năm khó khăn đối với người nuôi ong do vẫn chưa thống nhất được quy định tỷ lệ chất tồn dư Carbenzamin (thuốc trừ nấm) trong mật ong khi xuất sang Mỹ. Hiện nay, thế giới cho phép dư lượng Carbenzamin trong mật ong là 0,01mg/kg nhưng riêng thị trường Mỹ thì Carbenzamin bị cấm hoàn toàn. Từ năm 2008, Mỹ đã đưa ra quy định trên nhưng tới cuối năm 2011 mới áp dụng chính thức. Điều này đã khiến gần 600 tấn mật ong Việt Nam đã bị phía Mỹ trả lại trong khoảng thời gian từ cuối tháng 7 đến tháng 11-2011.
Ngày 13-2-2012, Cơ quan Kiểm dịch động thực vật Liên bang Nga (VPSS) liên tiếp có 2 công thư thông báo các lô hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm (nhiễm vi khuẩn gây bệnh Vibrio Parahaemolyticus, Coliform, nấm men, nấm mốc...) có chiều hướng gia tăng.
Trong sáu tháng đầu năm 2012, Việt Nam chịu bốn vụ kiện chống bán phá giá, trong đó có hai vụ do Brazil khởi kiện, hai vụ do Mỹ khởi kiện; và một vụ kiện chống trợ cấp. Ngoài ra, Philippines cũng rà soát biện pháp tự vệ đã áp với các sản phẩm kính nổi nhập khẩu từ một số nước, trong đó có Việt Nam. Mới đây nhất, ngày 25-6-2012, Bộ Phát triển - Công nghiệp và Ngoại thương Brazil (MDIC) cũng chính thức đăng trên công báo về việc khởi kiện một số nước, trong đó có Việt Nam, đối với sản phẩm lốp xe máy xuất khẩu vào thị trường Brazil.
Các vụ kiện về phòng vệ thương mại, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đã và sẽ tiếp tục có xu thế tăng trong những năm tới đây. Kể từ vụ kiện chống bán phá giá đầu tiên đối với gạo nhập khẩu từ Việt Nam vào Columbia năm 1994, đến nay đã có 49 vụ kiện chống bán phá giá (bao gồm cả các vụ kiện chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá) và 3 vụ kiện chống trợ cấp được tiến hành đối với hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam. Trung bình mỗi năm có gần 3 vụ kiện chống bán phá giá được tiến hành đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam. Số vụ kiện chống bán phá giá trong hai năm gần đây (2011 và 2012) là tương đối cao so với mức trung bình với 6 vụ tiến hành trong năm 2011 và 7 vụ trong năm 2012 (theo thống kê của Hội đồng tư vấn các biện pháp phòng vệ thương mại quốc tế - VCCI).
Các ngành công nghiệp Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều nguy cơ bị kiện chống bán phá giá. Năm 2013, các mặt hàng sau của Việt Nam có thể phải đối diện với khả năng bị kiện chống bán phá giá: giấy và đồ gỗ nội thất tại thị trường Mỹ, hạt điều tại Ấn Độ và tôn mạ phủ màu tại Thái Lan và Malaysia.
Ngay đầu năm 2013, Mỹ khởi kiện chống trợ cấp tôm của Việt Nam trong khi mặt hàng này đã bị áp thuế chống bán phá giá. Rào cản ethoxyquin đã ảnh hưởng nặng đến tôm Việt Nam trong nửa cuối năm 2012. Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP), quyết định kiểm tra ethoxyquin đối với 100% tôm từ Việt Nam, với mức dư lượng quá thấp (0,01 ppm) đã khiến “cửa ra” của tôm Việt Nam càng hẹp hơn trong bối cảnh nhu cầu từ 2 thị trường lớn khác là Mỹ và EU đều giảm mạnh. Bức tranh của ngành thêm phần ảm đạm, khi ông Lê Văn Quang, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Minh Phú (nhà xuất khẩu tôm lớn nhất Việt Nam) cho biết, đã có 30% doanh nghiệp trong ngành phá sản, 40% chết lâm sàng, 20% ngoắc ngoải, chỉ còn 10% số doanh nghiệp hoạt động có lợi nhuận.
Một điểm lưu ý khác là, trong số 7 quốc gia bị kiện, khối lượng nhập khẩu tôm từ Việt Nam chỉ chiếm 8,02%, trong khi Indonesia và Malaysia lần lượt chiếm tỷ trọng 14,87% và 4,49% (trong tổng lượng nhập khẩu từ 7 nước bị kiện trong giai đoạn trên) hiện không bị áp dụng lệnh chống bán phá giá. Ngoài ra, lệnh chống bán phá giá đối với tôm đã được áp dụng hơn 5 năm. Theo quy định, cứ 5 năm, Mỹ sẽ tiến hành xem xét lại, thuật ngữ gọi là "xem xét hoàng hôn" để xem xét khả năng dỡ bỏ hoàn toàn lệnh chống bán phá giá. Trong kỳ "xem xét hoàng hôn lần thứ nhất năm 2011, bên nguyên đơn đã thành công trong việc thuyết phục Bộ Thương mại Mỹ kéo dài lệnh chống bán phá giá thêm 5 năm. Tuy nhiên, kết quả của đợt xem xét hoàng hôn tiếp theo vào năm 2016 có thể sẽ không thuận lợi cho nguyên đơn. Do đó, nếu thắng trong vụ kiện chống trợ cấp này, họ sẽ có được lớp bảo vệ thay thế trong trường hợp lệnh chống bán phá giá bị thu hồi vào năm 2016.
Trong khi các hạn chế thương mại về mặt thuế quan và hạn ngạch được cắt giảm hoặc loại bỏ theo quy định của WTO, các biện pháp phòng vệ thương mại lại trở thành giải pháp hữu ích và là công cụ hợp pháp để ngành sản xuất nội địa bảo vệ mình trước cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. Điều này lý giải phần nào thực tế các vụ kiện phòng vệ thương mại có xu hướng ngày càng gia tăng.
Một dự báo khác đáng chú ý là các vụ kiện thương mại tại các thị trường có truyền thống ưa chuộng sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại như EU, Mỹ có chiều hướng giảm đi hoặc giữ nguyên trong khi các vụ kiện như vậy có xu hướng gia tăng tại các nước đang phát triển như Brazil, Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ, Ai Cập… do xuất khẩu của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá cao (khoảng 20%/năm), xếp hạng 39/260 nước xuất khẩu nhiều nhất thế giới; có tính tập trung cao về thị trường. Bên cạnh đó là hiện tượng phòng vệ thương mại quốc tế theo hiệu ứng “domino”. Cuối năm 2006, Việt Nam đồng thời bị một số nước nhập khẩu EU áp thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng giày dép của Việt Nam vào thị trường EU. Thứ ba là hiệu ứng cộng gộp, các nhà sản xuất trong nước (nước nhập khẩu) có quyền cộng thị phần hàng hóa của một nhóm nước xuất khẩu để khởi kiện. Trong 37 vụ kiện, các hình thức cộng gộp đối với hàng hóa Việt Nam là đa số. Một nguyên nhân khác góp phần tăng khả năng Việt Nam bị kiện thương mại là tình trạng lẩn tránh thuế chống bán phá giá/chống trợ cấp đang diễn ra tại các nước khác như vụ giày dép do Brazil điều tra năm 2011, và bật lửa gas do Uỷ ban châu Âu (EC) điều tra năm 2012. Hiện có các nguồn tin cho thấy ngành sản xuất đồ gỗ nội thất và thép của Trung Quốc đã và đang chuyển sản xuất sang Việt Nam nhằm tránh thuế chống bán phá giá do Mỹ áp dụng. Cuối cùng, lý do khiến các vụ kiện phòng vệ thương mại đối với Việt Nam có thể tiếp tục gia tăng trong thời gian tới là phần lớn các đối tác thương mại của Việt Nam vẫn xem Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường (NME). Điều này thường dẫn đến kết quả là biên độ phá giá cao hơn cũng như các bên tham gia vào quá trình điều tra phải bỏ thêm nhiều công sức và chi phí. Theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, quy chế NME sẽ được dỡ bỏ vào năm 2018. Ngoài ra, cùng với hội nhập quốc tế và tự do hóa thương mại nói chung, nhiều nước đã lạm dụng biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ hàng hóa trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng như hiện nay.
Thực tế, sản phẩm bị khởi kiện cũng ngày càng đa dạng, trước đây chỉ mặt hàng có kim ngạch lớn như thủy sản, da giầy mới bị kiện, nhưng nay, ngay cả những mặt hàng có kim ngạch chỉ vài chục triệu USD (như lò xo, giường ngủ…) cũng phải đối mặt với các vụ kiện.
Trong vụ kiện về mặt hàng túi nhựa PE, Mỹ đồng thời kiện cả chống bán phá giá và chống trợ cấp. Vụ việc này có nguy cơ trở thành một tiền lệ xấu đối với các hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường rộng lớn này. Cũng trong hai tháng vừa qua, riêng Ấn Độ đã có tới 3 quyết định áp thuế chống bán phá giá cuối cùng đối với hàng hóa Việt Nam. Đây là điều rất đáng lo ngại trong bối cảnh quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Ấn Độ đang tốt đẹp và ưu thế thương mại đang nghiêng hẳn về phía Ấn Độ.
Đối phó với các vụ kiện
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ với 200 nước và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định thương mại với 61 nước và thoả thuận đối xử tối huệ quốc với 68 quốc gia.
Tháng 2-2008, bên lề buổi nói chuyện, Giáo sư John Quelch, Hiệu phó Trường Kinh doanh Harvard (Hoa Kỳ), đã nói: "Các sản phẩm đến từ Việt Nam cần phải có những thay đổi về chất lượng để khẳng định thương hiệu của mình. Trên thị trường thế giới, thương hiệu của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hơn 200 quốc gia khác nhau". Các doanh nghiệp nên coi các nước nhập khẩu đang áp dụng các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa của mình chỉ là một hình thức rủi ro trong thương mại. Trong kế hoạch kinh doanh, các doanh nghiệp cần đưa nội dung này vào quản lý như các rủi ro thường gặp khác trong quá trình phát triển thị trường. Khi hàng hóa của mình bị khởi kiện, các doanh nghiệp nên tích cực, chủ động trong quá trình điều tra để hạn chế tới mức thấp nhất những tổn thất do vụ kiện gây ra, bởi các nước khi lạm dụng các biện pháp phòng vệ sẽ không thể áp đặt một cách quá đáng, nếu không họ sẽ bị khởi kiện ra WTO. Ngoài ra, bản thân doanh nghiệp cũng cần có biện pháp phòng chống từ xa, thường xuyên chủ động theo dõi thị trường xem hàng hóa của mình vào thị trường đó có nguy cơ bị bán phá giá hay không, để từ đó có những điều chỉnh thích hợp hay có những chuẩn bị khi đối phó với các vụ kiện. Quan trọng nhất là phải đa dạng hóa sản phẩm lẫn thị trường.
Bà Susan Schwab, nguyên Đại diện Thương mại Mỹ cũng khuyến cáo, Việt Nam nên mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường sẽ khiến doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam dễ bị “dính đòn” kiện bán phá giá do các nước tìm cách cân bằng lại cán cân thương mại bằng cách dựng lên các hàng rào kỹ thuật. Vì vậy, theo nhiều chuyên gia kinh tế, Việt Nam phải gấp rút thay đổi cơ cấu thị trường theo hướng “bỏ trứng vào nhiều giỏ”. Biện pháp phòng tránh tốt nhất với các vụ kiện là tăng xuất khẩu hàng có chất lượng cao, có cơ chế dự báo theo dõi thường xuyên sản xuất ở nội địa nhằm phát hiện kịp thời những nguy cơ bị kiện. Việc tuyên truyền, xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu về thương mại liên quan đến sản phẩm, thu thập thông tin về ngành sản xuất ở nội địa để cảnh báo nguy cơ cần thực hiện thường xuyên, liên tục.
Các doanh nghiệp, hiệp hội nước ta hoàn toàn có thể khởi kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ để bảo vệ sản xuất trong nước. Tuy nhiên, để làm được điều này phải có sự gắn kết vì chi phí để khởi kiện và kháng kiện không hề nhỏ, chi phí kháng kiện đối với vụ kiện chống bán phá giá cá tra, ba sa năm 2000 đã hao tốn đến 500 nghìn USD và chi phí kháng kiện cho mặt hàng tôm năm 2005 là 2 triệu USD.
Những việc làm trước mắt
- Tổ chức kênh thông tin tốt hơn nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp nắm bắt kịp thời về các rào cản môi trường trong xuất khẩu
Tăng cường vai trò của Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Công nghiệp và Thương mại (VCCI) trong việc tổ chức tốt kênh thông tin cho các doanh nghiệp về rào cản thương mại của các nước nhập khẩu.
- Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam theo hướng tương thích với hệ thống tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu, hoàn thiện hơn cơ chế kiểm tra, giám sát đối với các doanh nghiệp trong các khâu nuôi trồng và chế biến sản phẩm
Cần phải rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản pháp luật mà đặc biệt là rà soát các hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN). Trong số 5.600 tiêu chuẩn Việt Nam thì chúng ta mới chỉ có khoảng 24% tiêu chuẩn bảo đảm hài hoà với tiêu chuẩn quy định của quốc tế và khu vực. Bên cạnh đó, cần xem xét và xây dựng các tiêu chuẩn mới theo hướng hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế hoặc khu vực nhằm thuận lợi hoá thương mại. Bên cạnh Hiệp định TBT, Việt Nam cần phải tuân thủ nghĩa vụ của các điều ước quốc tế trong Hiệp định SPS về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật.
- Tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các chính sách ưu đãi về tín dụng cho đầu tư công nghệ xử lý các vấn đề liên quan đến môi trường
Cần thiết phải hỗ trợ về vốn đầu tư bảo vệ môi trường cho các doanh nghiệp có quy mô xuất khẩu lớn, có ảnh hưởng quyết định đến thị phần xuất khẩu của nước ta. Đó cũng chính là hướng đầu tư tập trung và có hiệu quả. Trên cơ sở các doanh nghiệp được đầu tư hiện đại này có thể tổ chức theo mô hình tập đoàn xuất khẩu lớn với các doanh nghiệp vệ tinh theo vùng lãnh thổ sẽ mang lại hiệu quả cao cho xuất khẩu đồng thời tăng cường năng lực của các tập đoàn trong việc vượt qua các rào cản ngày càng phức tạp hiện nay.
- Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ môi trường nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong khâu kỹ thuật xử lý ô nhiễm môi trường
Trong các khó khăn của doanh nghiệp để đối phó với các rào cản thương mại thì thiếu kỹ thuật được các doanh nghiệp cho là lớn nhất. Cần tăng cường nguồn nhân lực cho các dịch vụ môi trường, mở rộng mạng lưới dịch vụ môi trường để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng và có hiệu quả các dịch vụ môi trường. Ở các vùng, các trung tâm xuất khẩu lớn như Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực Tây nguyên cần thành lập các trung tâm dịch vụ môi trường để kịp thời xử lý tại chỗ và đáp ứng nhu cầu rất lớn của các doanh nghiệp.
- Tăng cường và chủ động áp dụng các hệ thống quản lý môi trường
Yêu cầu bức thiết là cần phải nhanh chóng triển khai áp dụng các hệ thống quản lý môi trường như ISO 14.000, HACCP, thực hiện quản lý tốt (GMP), thực tiễn nuôi trồng tốt (GAP).
- Điều chỉnh chiến lược kinh doanh theo hướng lồng ghép với kế hoạch bảo vệ môi trường
Trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cần được thể hiện rõ kế hoạch bảo vệ môi trường, dành cho nó một vị trí quan trọng với nguồn kinh phí hợp lý. Doanh nghiệp cần chủ động lập kế hoạch về các hạng mục cần đầu tư, kinh phí cần thiết, lộ trình thực hiện một cách hợp lý nhằm đưa nhiệm vụ bảo vệ môi trường trở thành hoạt động có kế hoạch, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài cho hoạt động xuất khẩu.
- Một số giải pháp khác
Việc chủ động liên kết giữa các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Các hiệp hội cần đẩy mạnh hoạt động nhằm kết nối giữa các doanh nghiệp, giúp đỡ những doanh nghiệp còn non yếu cùng nâng cao năng lực đối phó với các rào cản thương mại môi trường.
Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, không lệ thuộc vào thể chế chính trị, sẽ không thể có kinh tế thị trường nếu không tiến hành tự do hoá thương mại. Đây là một trong những đặc trưng chủ yếu và cũng là nội dung quan trọng nhất của việc vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển mà không chịu sự tác động của những quan hệ mang tính tổng hợp, khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải chấp nhận “luật chơi’ và “cách chơi”. Trong bối cảnh ấy việc sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật có liên quan, hoàn thiện và hòa hợp các chính sách, cơ chế nhằm thúc đẩy tự do hoá thương mại sẽ là một giải pháp hữu hiệu để bảo đảm sự tăng trưởng và phát triển một cách bền vững./.
Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tạo điều kiện và tin tưởng ngư dân bám biển  (14/04/2013)
Khởi công Dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng  (14/04/2013)
Chương trình “Một trái tim - Một thế giới” nhận được 22 tỷ đồng từ các nhà hảo tâm  (14/04/2013)
“Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại  (14/04/2013)
Bổ nhiệm Phó Ban Nội chính Trung ương  (14/04/2013)
- Về tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm