Hoạt động của lực lượng công an nhân dân trong khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế, xã hội
TCCS - Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống căn cước công dân, cùng với các phương thức định danh và xác thực điện tử là những hệ thống dữ liệu quan trọng, nhằm giúp quản lý thông tin của công dân một cách đồng bộ, chính xác và minh bạch; tạo nền tảng vững chắc để xây dựng Chính phủ điện tử, hướng đến Chính phủ số và nền kinh tế số. Việc khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước định danh và xác thực điện tử của lực lượng Công an nhân dân không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước mà còn mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội, hướng đến một xã hội hiện đại, thông minh và phát triển bền vững.
Thực trạng hoạt động khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân, định danh và xác thực điện tử
Trong thời đại công nghệ số, dữ liệu trở thành một nguồn tài nguyên quan trọng, đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của nền kinh tế và xã hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý nhà nước, việc khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân, định danh và xác thực điện tử không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý hành chính mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Với vai trò nòng cốt trong việc bảo đảm an ninh, trật tự, trong những năm qua, lực lượng công an nhân dân đang tận dụng tối đa hệ thống dữ liệu này để mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý; góp phần thay đổi phương thức quản lý kinh tế - xã hội trong các lĩnh vực cụ thể, quản lý công dân từ thủ công, sử dụng giấy tờ sang phương thức quản lý hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, lực lượng công an cũng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính chính xác trong quản lý thông tin cơ bản của công dân giữa các bộ, ngành, địa phương, đồng thời, tiết kiệm thời gian, công sức, cơ sở vật chất trong xây dựng và vận hành các cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Việc chuyển đổi công tác từ thủ công sang công nghệ hiện đại sẽ góp phần cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, tiết kiệm biên chế, tiết kiệm ngân sách nhà nước và các bộ, ngành, địa phương hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm.
Theo báo cáo của Bộ Công an, từ năm 2022 đến hết năm 2024, lực lượng công an nhân dân đã thực hiện kết nối các trường dữ liệu của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực thuế, bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, giáo dục và đào tạo, y tế, ngân hàng, điện lực vào cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ công tác quản lý nhà nước nói chung, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói riêng được 757.536.281 bản ghi. Trên cơ sở đó, Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư đã tiến hành đồng bộ, đối sánh được 254,37 triệu dữ liệu; khai thác, tra cứu hồ sơ thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được 211.279.742 hồ sơ dữ liệu. Từ việc khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, lực lượng công an nhân dân đã tiết kiệm cho Nhà nước, doanh nghiệp khoảng 3.486,4 tỷ đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động của lực lượng công an nhân dân trong khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian vừa qua còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, cụ thể: việc khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của lực lượng công an nhân dân chưa thực sự toàn diện, mới tập trung trên một số lĩnh vực trọng tâm của Đề án số 06; mặc dù dữ liệu về dân cư tiếp tục được “làm sạch”, “làm giàu” nhưng vẫn còn 25.865 công dân chưa xác định được quốc tịch, không có giấy tờ tùy thân nên không đủ điều kiện cấp số định danh cá nhân theo quy định. Việc tái sử dụng thông tin, dữ liệu số hóa phục vụ giải quyết thủ tục hành chính theo nguyên tắc người dân, doanh nghiệp chỉ cung cấp thông tin một lần còn rất hạn chế; việc kết nối, chia sẻ các dữ liệu của Bộ Công an trong hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu của một số các bộ, ngành khác để khai thác phục vụ phát triển kinh tế - xã hội còn chưa thực sự đồng bộ, thống nhất, cơ chế phối hợp ở một số thời điểm với một số Bộ, ngành chưa thực sự chặt chẽ, gắn kết và chưa đảm bảo tính kịp thời nên chưa phát huy hết vai trò, tính năng của hệ thống dữ liệu trong quá trình khai thác; cơ sở vật chất, trang cấp phương tiện, thiết bị nghiệp vụ để khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội còn chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, nhất là cơ sở vật chất đối với các đơn vị Công an cấp xã (tài khoản truy cập, thiết bị cho phép truy cập, hệ thống máy tính, đường truyền tín hiệu…) chưa đáp ứng yêu cầu công tác. Đặc biệt là vẫn còn tiềm ẩn một số nguy cơ, tồn tại lỗ hổng bảo mật, hệ thống không bảo đảm an ninh, an toàn để kết nối khai thác dữ liệu tại công an các đơn vị, địa phương.
Từ thực tế hoạt động của lực lượng công an nhân dân trong khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian vừa qua, những tồn tại, hạn chế nêu trên do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc quản lý, kết nối, chia sẻ, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội chưa bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất để tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ, ngành, đơn vị, địa phương triển khai, tổ chức thực hiện.
Thứ hai, nhân lực cho khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của lực lượng công an nhân dân còn thiếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, chiến sĩ được đào tạo chuyên ngành về lĩnh vực công nghệ thông tin số lượng còn hạn chế. Đồng thời, chưa tạo được cơ chế, chính sách ưu đãi, vượt trội về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về chuyển đổi số vào làm việc trong khu vực cơ quan nhà nước nói chung, vào lực lượng công an nhân dân nói riêng.
Thứ ba, việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, hệ thống định danh và xác thực điện tử còn phân tán, thiếu đồng bộ, chưa có cơ chế kết nối liên thông hoàn chỉnh.
Thứ tư, quan hệ phối hợp giữa lực lượng Công an nhân dân với các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong hoạt động khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội chưa được chặt chẽ, thường xuyên, chưa có sự gắn kết với quyền, trách nhiệm, lợi ích của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Thứ năm, việc bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng đối với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chưa chặt chẽ, vẫn còn có hiện tượng máy tính nghiệp vụ của một số công an tại đơn vị, địa phương kết nối với thiết bị ngoại vi trái phép, kết nối Internet dẫn đến nguy cơ bị các thế lực thù địch lợi dụng tấn công và gây thất thoát tài nguyên dữ liệu. Việc quản lý thiết bị mật mã chưa nghiêm; quản lý tài khoản đăng nhập hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư còn lỏng lẻo; chưa giám sát được các hệ thống có bảo mật cơ yếu.
Giải pháp trong việc khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử
Để tổ chức thực hiện tốt hoạt động của lực lượng công an nhân dân trong khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, Bộ Công an cần tập trung chỉ đạo thực hiện một số vấn đề trọng tâm sau:
Một là, tham mưu hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc quản lý, kết nối, chia sẻ, khai thác thông tin công dân giữa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với các cơ sở dữ liệu nghiệp vụ của các bộ, ngành phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, Bộ Công an tham mưu xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật dữ liệu gồm nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Dữ liệu và các văn bản có liên quan. Đồng thời, ban hành quy định về rà soát, tái cấu trúc sử dụng dữ liệu dân cư, định danh điện tử, căn cước công dân, hướng dẫn các đơn vị, địa phương tích hợp việc điền dữ liệu tự động, bảo đảm công dân chỉ kê khai một lần, giảm bớt giấy tờ, tăng tiện ích. Ngoài ra, cần phối hợp với các bộ, ngành, địa phương khẩn trương rà soát, điều chỉnh các quy trình nội bộ để đáp ứng các quy định của Luật Giao dịch điện tử; thực hiện các biện pháp, giải pháp linh hoạt sáng tạo, hiệu quả cho phép sử dụng các giấy tờ điện tử tích hợp trên tài khoản định danh điện tử thay thế với giấy tờ giấy khi thực hiện các thủ tục hành chính; sớm có phương án cắt giảm những thành phần hồ sơ (không cần thiết) khi dữ liệu đã được số hóa.
Hai là, tổ chức có hiệu quả các hoạt động đào tạo, tập huấn chuyên sâu nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân trực tiếp thực hiện hoạt động khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân, định danh và xác thực điện tử phục vụ cho việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, cần tập trung vào nhiệm vụ đào tạo kỹ năng khai thác, sử dụng và quản trị dữ liệu số như: Kỹ năng quản lý, khai thác, phân tích dữ liệu theo quy trình nghiệp vụ công an. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) để phân tích hành vi số trong công tác điều tra, quản lý cư trú, định danh điện tử. Bồi dưỡng kỹ năng sử dụng các hệ thống khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia ngay tại cơ sở; cách xử lý văn bản điện tử, quy trình xác minh danh tính công dân; nâng cao kỹ năng giao tiếp, hướng dẫn người dân sử dụng định danh điện tử; huấn luyện kỹ năng ứng phó với các nguy cơ mất an toàn dữ liệu, xử lý sự cố tấn công mạng. Đào tạo bài bản việc bảo mật thông tin, phòng chống tấn công mạng, giả mạo danh tính và đảm bảo quyền riêng tư khi xử lý dữ liệu cá nhân. Cập nhật các công nghệ mới: Blockchain, sinh trắc học, an toàn thông tin để cán bộ có khả năng vận hành hệ thống theo tiêu chuẩn cao. Nghiên cứu xây dựng, phát triển trợ lý ảo cho cán bộ Công an để hướng dẫn quy trình cấp căn cước công dân, đăng ký cư trú theo từng trường hợp; tự động đề xuất phương án xử lý hồ sơ, giảm sai sót thủ tục (khi đã nhập, duyệt thông tin dữ liệu theo quy trình). Sử dụng Chatbot hỗ trợ công dân trong tra cứu thông tin hành chính, giúp giảm tải áp lực cho cán bộ Công an.
Ba là, báo cáo Chính phủ chỉ đạo quyết liệt và khẩn trương nhằm nhanh chóng hoàn thiện việc kết nối dữ liệu của các bộ, ngành với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để khai thác hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. Phối hợp các bộ, ngành nằm trong định hướng cơ cấu, sắp xếp, hợp nhất tổ chức bộ máy chủ động nghiên cứu phương án hợp nhất và nâng cấp các Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của bộ, ngành mình, bảo đảm cho hoạt động kết nối, khai thác dữ liệu được thực hiện trên cơ sở an ninh, an toàn thông tin và kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cổng dịch vụ công quốc gia, các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, bảo đảm kế thừa các kết quả đã triển khai, không làm gián đoạn việc quản lý, theo dõi, tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp. Chuẩn hóa dữ liệu và giao thức kết nối trên cơ sở xây dựng chuẩn dữ liệu dùng chung giữa các bộ, ngành theo hướng dữ liệu mở nhưng vẫn đảm bảo tính bảo mật. Ban hành quy tắc chung về API kết nối, giúp các bộ, ngành có thể dễ dàng tích hợp với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Nghiên cứu thiết lập cơ chế xác thực danh tính tập trung bằng căn cước công dân gắn chip hoặc định danh điện tử VNeID, bảo đảm mọi giao dịch điện tử sử dụng một hệ thống xác thực thống nhất. Xây dựng hệ thống bảo mật đa lớp, trong đó tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) để phát hiện và ngăn chặn các hành vi truy cập trái phép. Áp dụng xác thực nhiều yếu tố (MFA) khi các bộ, ngành truy xuất dữ liệu từ hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Xây dựng cơ chế giám sát và đánh giá việc kết nối dữ liệu thông qua hệ thống theo dõi, giám sát kết nối dữ liệu theo thời gian thực, giúp phát hiện lỗi và xử lý nhanh chóng. Định kỳ tổ chức kiểm tra, đánh giá an ninh mạng, đảm bảo dữ liệu không bị lộ lọt, giả mạo hoặc sử dụng trái phép.
Bốn là, nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa lực lượng công an nhân dân với các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong hoạt động khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Phối hợp nghiên cứu, xây dựng cổng thông tin điện tử kết nối dữ liệu dân cư giữa Bộ Công an và các tổ chức, doanh nghiệp, đảm bảo khả năng khai thác, trao đổi dữ liệu hiệu quả và an toàn. Thiết lập tiêu chuẩn dữ liệu quốc gia để bảo đảm tính đồng bộ, dễ dàng trong việc tích hợp và sử dụng dữ liệu bởi các tổ chức, doanh nghiệp. Phối hợp ban hành quy định kỹ thuật về giao thức kết nối API, bảo đảm an toàn, nhanh chóng và hiệu quả. Phối hợp xây dựng nội dung tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến dễ hiểu, dễ tiếp cận trên các cổng thông tin điện tử, tăng trải nghiệm sử dụng dịch vụ của người dân; cung cấp thông tin đầy đủ trên môi trường mạng, khai thác tối đa hiệu quả thông tin, tuyên truyền trên nền tảng các mạng xã hội. Xây dựng kênh tiếp nhận, giải quyết ý kiến đóng góp, phản hồi của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp về những vướng mắc khi khai thác, sử dụng dữ liệu. Tham mưu, đề xuất Nhà nước có các giải pháp hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp khi tham gia đồng hành trong hoạt động này như áp dụng các chính sách ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính để các doanh nghiệp triển khai mạnh mẽ ứng dụng dữ liệu dân cư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ khách hàng. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hạ tầng kỹ thuật, các nền tảng số và ứng dụng xác thực điện tử. Phối hợp xây dựng các chương trình hợp tác công - tư nhằm khai thác hiệu quả hơn dữ liệu dân cư phục vụ phát triển các dịch vụ kinh tế - xã hội.
Năm là, tiếp tục duy trì, bảo đảm an ninh, an toàn hoạt động khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân, định danh và xác thực điện tử trong phát triển kinh tế - xã hội. Tham mưu hoàn thiện khung pháp lý về an ninh dữ liệu theo hướng xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc duy trì bảo mật thông tin và an toàn dữ liệu. Ban hành quy định cụ thể về bảo mật, quản lý truy cập, khai thác thông tin dân cư, căn cước công dân và xác thực điện tử. Thực hiện đúng quy trình về cơ chế kiểm soát và quản lý quyền truy cập đối với các loại dữ liệu quản lý. Triển khai hệ thống quản lý phân quyền chặt chẽ, đảm bảo chỉ những người có trách nhiệm và quyền hạn cụ thể mới có thể truy cập vào mỗi lớp thông tin nhất định. Áp dụng các phương thức xác thực hiện đại như: xác thực hai yếu tố (2FA), xác thực sinh trắc học,… để tăng cường bảo mật. Thường xuyên nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo mật trên cơ sở xây dựng và duy trì hệ thống tường lửa, hệ thống phát hiện xâm nhập, ngăn chặn xâm nhập (IPS/IDS) hiệu quả cao để phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi truy cập trái phép. Sử dụng các giải pháp mã hóa dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu nhạy cảm, thông tin cá nhân và xác thực điện tử. Áp dụng Blockchain để tăng cường khả năng bảo mật và xác thực thông tin, hạn chế khả năng giả mạo, chỉnh sửa dữ liệu. Kiểm soát chặt chẽ truy cập hệ thống từ các thiết bị đầu cuối tại cơ quan công an các đơn vị địa phương thông qua phần mềm giám sát máy trạm địa phương; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về kiến thức an toàn thông tin cho cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ./.
Tôn vinh các nhà báo tiêu biểu, xuất sắc trong công an nhân dân  (20/06/2025)
Xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (11/04/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm