TCCSĐT - Trong hai ngày 5 và 6-10, tại Hà Nội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp với Tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam tổ chức Hội thảo “Di dân, phát triển và giảm nghèo”. Di cư cũng là chủ đề của Báo cáo Phát triển con người toàn cầu năm 2009 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), được công bố tại Hội thảo này.

Năm nay, Báo cáo Phát triển con người tập trung vào chủ đề “Vượt qua rào cản: Di cư và phát triển con người”. Báo cáo chứng minh rằng, di cư có những đóng góp đáng kể đối với phát triển con người, nhưng cần phải có một môi trường, chính sách thuận lợi để có thể hiện thực hoá những lợi ích của di cư.

Di cư có thể thúc đẩy phát triển con người

Ông Bruce Campbell, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) nhấn mạnh vai trò tích cực của người di cư: Di cư có thể thúc đẩy phát triển con người. Những phụ nữ, nam giới và trẻ em chuyển đi nơi khác sinh sống, những cộng đồng mà họ chuyển đến và những người ở lại quê hương, tất cả đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, người di cư cần được sự hỗ trợ và bảo vệ, đặc biệt là từ các nhà hoạch định chính sách và các cấp lãnh đạo trên địa bàn cả nước.

Theo ông Bruce Campbell, trong hai thập kỷ qua, tại Việt Nam, di cư trong nước đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo.

Di cư từ nông thôn ra thành thị và đến các khu công nghiệp đã đáp ứng phần lớn nhu cầu lao động phục vụ phát triển công nghiệp và đầu tư nước ngoài. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, ước tính người di cư đóng góp tới 30% GDP của Thành phố. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, thu nhập được tạo ra tại các khu vực thành thị và khu công nghiệp của Việt Nam có xu hướng được chuyển về các vùng nghèo hơn. Đây chính là một hệ quả tích cực, trực tiếp tác động lên hoạt động di cư của người dân.

Ở Việt Nam, ước tính sơ bộ tổng thu nhập do người lao động di cư cả trong nước và ngoài nước gửi về trong năm 2007 đạt tới 5,5 tỉ USD, trong đó phần đóng góp của nhóm dân di cư trong nước đang ngày càng tăng. Người di cư nằm trong số những người có học vấn tốt nhất và kinh doanh thành công nhất ở nông thôn. Họ sử dụng tiền tiết kiệm, kỹ năng và kinh nghiệm để phát triển các hoạt động kinh doanh quy mô vừa và nhỏ tại quê hương, do vậy họ đã giúp tạo thêm công ăn việc làm và tăng thu nhập. Bản thân người di cư cũng được hưởng lợi từ việc được tiếp nhận những ảnh hưởng xã hội và văn hoá gắn với quá trình di cư.

Những “rào cản”

Tuy nhiên, cũng có những chi phí liên quan tới di cư cần được nắm bắt và giải quyết. Một số nhà nghiên cứu của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam cho rằng, hiện nay, di cư nông thôn - đô thị tạo ra những áp lực về cơ sở hạ tầng ở các thành phố và các dịch vụ xã hội, như nhà ở, khám chữa bệnh, hệ thống điện, nước, vệ sinh. Người dân di cư rất dễ bị tổn thương. Đối với người di cư nghèo, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, di cư hàm chứa đầy rủi ro và phải chi trả cao. Thông thường, người di cư sống trong điều kiện thiếu vệ sinh và không an toàn, và họ cũng không đủ tiêu chuẩn để được hưởng các chương trinh hỗ trợ giảm nghèo dành cho những người dân sở tại. Còn chủ sử dụng lao động lại thường không tuân thủ những điều luật bảo vệ quyền và nhu cầu của người di cư.

Ông Bruce Campbell, Trưởng đại diện UNFPA, cho biết thêm, do người di cư thường không có hộ khẩu thường trú hoặc chỉ đăng ký tạm trú nên so với người dân sở tại, họ không được đưa vào hệ thống hỗ trợ chính thức của Chính phủ và do vậy, thường không được đưa vào quy hoạch cũng như ngân sách dành cho các dịch vụ xã hội. Điều tra di cư năm 2004 cho thấy, thu nhập trung bình của người di cư tại Việt Nam thấp hơn nhiều so với người dân sở tại ở thành thị.

Những thách thức của di cư không chỉ nhận thấy ở nơi đến mà còn thể hiện ở nơi đi. Việc di chuyển của con người từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp có thể có ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường lao động nơi đi, đặc biệt là đối với những người di cư có trình độ, kỹ năng nghiệp vụ. Ở cấp độ cá nhân, mặc dù những gia đình có người trong hộ di cư có được điều kiện sống tốt hơn nhờ tiền gửi về, nhưng họ lại phải đối phó với các vấn đề kinh tế - xã hội và chịu gánh nặng tâm lý do thiếu vắng một số thành viên trong gia đình. Con cái của người di cư cũng phải chịu nhiều tác động của việc di cư này.

Đưa ra các khuyến nghị, ông Bruce Campbell lưu ý rằng, điều quan trọng là phải đảm bảo cung cấp các dịch vụ bảo trợ và an sinh xã hội cho người di cư, đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội khác như giáo dục, chăm sóc y tế.Vấn đề di cư cần được lồng ghép vào các chiến lược giảm nghèo quốc gia và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Để đảm bảo di cư đem lại lợi ích cho người nghèo, chúng ta phải ghi nhận đầy đủ vai trò tích cực của di cư trong quá trình phát triển của cả địa phương nơi họ ra đi và địa phương nơi họ đến, cũng như đối với bản thân người di cư và gia đình họ.

Bên cạnh đó, mặc dù nhiều biện pháp cải cách về thủ tục đăng ký thường trú và tạm trú đã và đang được áp dụng để giảm bớt các giới hạn đối với một số nhóm người di cư nhất định, nhưng những người di cư không đăng ký hoặc chỉ đăng ký hộ khẩu tạm trú vẫn gặp nhiều khó khăn.

Tại Hội thảo, các nhà khoa học cũng cung cấp những bằng chứng khoa học cần thiết nhằm giúp cho việc hiểu rõ hơn về những tác động tích cực và tiêu cực của di cư nội địa ở Việt Nam. Qua đó, các đại biểu thảo luận về những thay đổi cần thiết trong chính sách và thực tiễn nhằm tăng thêm những lựa chọn cho người di cư và gia đình họ, đặc biệt là nhóm người nghèo và dễ bị tổn thương, giúp bản thân họ và toàn thể xã hội có thêm được những lợi ích từ di cư tự nguyện vì mục đích kinh tế.

Trong hai ngày hội thảo, các đại biểu còn tham gia thảo luận về các vấn đề nổi bật khác như: làm thế nào để liên kết di cư với phát triển và giảm nghèo; di cư và quyền của phụ nữ và sức khoẻ; tác động của người di cư tới gia đình và trẻ em; các nghiên cứu về tình hình di cư của một số nước châu Á như Trung Quốc, Cam-pu-chia và Phi-líp-pin./.