TCCS - Trong lịch sử dân tộc, ở mọi thời đại, tư tưởng, đạo đức, lối sống và môi trường văn hóa là nội dung quan trọng trong xây dựng nhân cách con người, hình thành lối sống, nếp sống chuẩn mực, là yếu tố nền tảng để xây dựng một xã hội tốt đẹp, nhân văn, đồng thời phản ánh sự tiến bộ xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, nội dung xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và môi trường văn hóa là nhiệm vụ hết sức to lớn và quan trọng trong đường lối chiến lược của Đảng và đời sống thực tiễn cả trước mắt và lâu dài. Nhiệm vụ này không phải của riêng ngành văn hóa, mà là yêu cầu đối với cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của toàn xã hội.
Thành tựu xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta trong thời gian qua
Xét trên tổng thể, môi trường văn hóa là một bộ phận quan trọng của môi trường sống, gắn bó hữu cơ, mật thiết với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội do con người tạo nên. Môi trường văn hóa là kết quả của phép ứng xử của con người với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và với chính bản thân mình. Vì vậy, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cũng đồng thời là cải thiện và nâng cao chất lượng của môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường xã hội nhân văn, hình thành và nuôi dưỡng nhân cách con người. Với ý nghĩa đó, xây dựng môi trường văn hóa không tách rời với việc xây dựng nhân cách cá nhân và xây dựng lối sống, nếp sống văn hóa của cộng đồng.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường văn hóa, trong những năm qua, việc xây dựng môi trường văn hóa bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định, cụ thể:
Thứ nhất, hệ thống văn bản quản lý nhà nước về văn hóa ngày càng được hoàn thiện. Xây dựng môi trường văn hóa đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo bằng những định hướng cơ bản quan trọng, thông qua hệ thống văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng và thông qua các nghị quyết chuyên đề, chuyên biệt về văn hóa, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; được thể hiện, thể chế hóa thông qua cơ chế, chính sách của Nhà nước. Qua đó, nhận thức của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của môi trường văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa từng bước được nâng lên. Ngành văn hóa, thể thao và du lịch đã chủ động phối hợp với các ngành, các địa phương trong cả nước tham mưu xây dựng và ban hành các văn bản, các chủ trương, chính sách, phát động các phong trào văn hóa nhằm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường với phương châm quản lý đi đôi với phát triển, kết hợp hài hòa giữa hai nhiệm vụ căn bản “xây” và “chống”. Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về văn hóa ngày càng được hoàn thiện: Một số luật, nghị định và văn bản liên quan để điều chỉnh các hoạt động văn hóa phù hợp với sự phát triển của đất nước được ban hành, sửa đổi, bổ sung kịp thời, trong đó có các nội dung về xây dựng môi trường văn hóa, quản lý, bảo tồn các di sản, các giá trị văn hóa truyền thống, quản lý và tổ chức lễ hội, quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở...
Thứ hai, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đạt được nhiều kết quả tích cực
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” (từ tháng 4-2000) kế thừa những thành tựu, kinh nghiệm, kết quả đạt được từ các phong trào “Đời sống mới” (năm 1961), xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Làng văn hóa” (năm 1991) và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” (năm 1995). Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là sợi dây đan kết các phong trào hiện có, như phong trào “Người tốt, việc tốt”, “Uống nước, nhớ nguồn”, “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Xóa đói, giảm nghèo”, xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”...
Kể từ khi phát động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, tại các địa phương, ngày càng xuất hiện nhiều nhân tố mới về điển hình tiên tiến trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Phong trào đã mang tính toàn diện, được khẳng định trong cuộc sống và có ý nghĩa chính trị - xã hội, nhân văn sâu sắc; đồng thời, góp phần quan trọng nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò và động lực của văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước; nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội về trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, xây dựng nông thôn mới trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển. Nhiều giá trị văn hóa, các quy định pháp luật và quy chế, quy tắc ứng xử văn hóa ngày càng thẩm thấu vào đời sống, tạo dựng môi trường sống lành mạnh cho cộng đồng dân cư, mỗi gia đình và cá nhân.
Phong trào đã có tác động tích cực đến phát triển kinh tế và văn hóa - xã hội một cách bền vững. Truyền thống đoàn kết và đạo lý dân tộc được phát huy, trở thành nội lực giúp nhau “xóa đói, giảm nghèo”, “đền ơn, đáp nghĩa”; xây dựng con người về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nếp sống được chú trọng, vai trò và vị trí của gia đình và cộng đồng được nâng lên; tình làng, nghĩa xóm được củng cố. Nhiều giá trị văn hóa dân tộc được bảo tồn và phát huy, làm phong phú đời sống văn hóa của người dân.
Phong trào đã thực sự đi vào cuộc sống và trở thành cuộc vận động về văn hóa có tầm ảnh hưởng và quy mô lớn, thu được nhiều thành tựu đáng kể. Đến năm 2018, qua 18 năm thực hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã có nhiều mô hình tiêu biểu, cách làm hiệu quả được phổ biến, nghiên cứu, học tập, nhân rộng: 19.064.069/22.236.778 gia đình được công nhận “Gia đình văn hóa”; 69.024/106.382 thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố văn hóa; 84.785/114.972 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp văn hóa; có 1.200.000 gương “người tốt, việc tốt” các cấp được tôn vinh, trong đó cấp tỉnh có 249.000 người, cấp huyện 712.000 người. Nhiều cá nhân, tập thể đã có thành tích xuất sắc được Đảng, Nhà nước, Chính phủ khen thưởng động viên kịp thời(1).
Kết quả đạt được của phong trào đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ gìn an ninh, trật tự xã hội, ổn định chính trị, xóa đói, giảm nghèo; làm lành mạnh môi trường văn hóa, nâng cao dân trí cho mọi người; giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư, làng, xóm; làm cho chất lượng cuộc sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Những nội dung, tiêu chí xây dựng và công nhận danh hiệu gia đình, làng, tổ dân phố văn hóa, xã đạt chuẩn nông thôn mới, phường đạt chuẩn văn minh đô thị cùng với nội dung quy ước, hương ước văn hóa được xây dựng và thực hiện trên các địa bàn cơ sở trong cả nước đang là những chuẩn mực về lối sống, đạo đức, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho toàn xã hội.
Thứ ba, xây dựng nếp sống văn hóa, đạo đức, lối sống ngày càng được chú trọng và phát huy hiệu quả.
Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội trên địa bàn cả nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, kịp thời đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, hạn chế và đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực, những hủ tục. Nhiều địa phương đã tổ chức cưới, tang văn minh, tiết kiệm, gọn nhẹ, giảm bớt các hủ tục phiền hà. Nhiều nét văn hóa mới được phát huy, như tổ chức các đám cưới không hút thuốc, xuất hiện mô hình tổ chức các đám cưới tập thể. Nhiều địa phương đã chú trọng chỉ đạo lồng ghép nội dung thực hiện nếp sống văn minh trong việc tang với các nội dung xây dựng gia đình văn hóa, làng (thôn, ấp, bản), tổ dân phố văn hóa, khu dân cư tiên tiến.
Việc xây dựng đạo đức, lối sống ngày càng được chú trọng; xuất hiện nhiều tấm gương đạo đức, hành động xả thân vì xã hội, dũng cảm cứu người trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh COVID-19,...
Thứ tư, giữ gìn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ngày càng đi vào chiều sâu.
Các giá trị, chuẩn mực cốt lõi của văn hóa, của môi trường văn hóa được gìn giữ, phát huy; các giá trị mới, chuẩn mực mới từng bước được hình thành, hoàn thiện; nhiều giá trị di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm; truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng được phát huy; các sản phẩm văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân; công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, đẩy mạnh, góp phần đáng kể vào việc xây dựng, từng bước hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở; nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh. Hệ thống di sản văn hóa được khai thác, gắn kết việc đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
Thứ năm, xây dựng và từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa.
Thiết chế văn hóa có vai trò quan trọng để tổ chức các hoạt động văn hóa cho nhân dân, đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt chung của cộng đồng; qua đó, cộng đồng tổ chức xây dựng và tổ chức thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương. Thiết chế văn hóa cơ sở còn là yếu tố gắn kết cộng đồng, điều chỉnh các mối quan hệ ở địa bàn dân cư; tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với mọi người dân; cổ vũ nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hiện nay, toàn quốc có 72 thiết chế văn hóa cấp tỉnh, gồm 60 trung tâm văn hóa, 3 nhà văn hóa, 4 trung tâm thông tin - triển lãm và 5 thiết chế văn hóa khác; 589/713 huyện trong cả nước có trung tâm văn hóa, hoặc nhà văn hóa huyện, chiếm tỷ lệ 82,6%; 6.102/11.162 xã/phường, thị trấn có trung tâm văn hóa - thể thao, chiếm tỷ lệ 54,7% (trong 6.102 trung tâm văn hóa - thể thao hiện có, có 30% trung tâm đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); 68.222/113.607 thôn, bản, buôn, làng, ấp có nhà văn hóa, đạt tỷ lệ 60% (trong 68.222 nhà văn hóa hiện có, có 47% nhà văn hóa đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Các thiết chế văn hóa thuộc các bộ, ngành, đoàn thể bao gồm 28 nhà văn hóa lao động cấp tỉnh, 17 nhà văn hóa lao động cấp huyện và trên 100 nhà văn hóa công nhân trong các doanh nghiệp; 80 nhà văn hóa, cung thiếu nhi cấp tỉnh; 189 cung, nhà thiếu nhi cấp huyện, nhà văn hóa thiếu nhi các ngành và các nhà văn hóa thuộc Quân đội, Công an nhân dân quản lý và sử dụng”(2). Với độ bao phủ và sự năng động, tích cực trong việc phát huy vai trò của các thiết chế, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao từ tỉnh đến cơ sở ở nhiều nơi đã thực sự trở thành trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, bồi dưỡng nghiệp vụ, là hạt nhân có tác động tích cực nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn; góp phần vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội,... phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, định hướng thẩm mỹ lành mạnh cho nhân dân.
Những bất cập, hạn chế trong xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta thời gian qua
Thứ nhất, cơ chế, chính sách, pháp luật về xây dựng, bảo vệ môi trường văn hóa vẫn còn những hạn chế, bất cập: Một số cơ chế, chính sách chưa có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi vi phạm. Hệ thống các văn bản quản lý nhà nước về xây dựng môi trường văn hóa tuy đã ban hành kịp thời, song vẫn còn thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, quy chuẩn, tính ổn định chưa cao; vẫn còn tình trạng văn bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung, từ đó hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh.
Thứ hai, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tuy đã đạt được những kết quả tích cực song chất lượng phong trào chưa bền vững. Việc tổ chức thực hiện các cuộc vận động trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” có nơi còn chạy theo thành tích và số lượng, chưa chú ý nâng cao chất lượng. Chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng, thôn, ấp, bản, buôn văn hóa chưa vững chắc và đồng đều giữa các vùng. Chất lượng các danh hiệu văn hóa, như gia đình văn hóa, làng văn hóa, thôn, ấp, bản văn hóa ở nhiều nơi còn hạn chế; chưa phát huy hiệu quả và hấp dẫn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện nếp sống văn hóa vẫn còn một số bất cập. Công tác quản lý và tổ chức một số lễ hội còn bộc lộ những yếu kém. Có biểu hiện thương mại hóa trong lễ hội, lợi dụng lễ hội để trục lợi, xuất hiện hiện tượng phản cảm, tranh cướp, chen lấn, xô đẩy, tranh giành, đeo bám khách làm mất trật tự, an ninh; lợi dụng tổ chức các trò chơi biến tướng sang đánh bạc còn diễn ra ở một số lễ hội, vẫn còn hiện tượng đốt nhiều vàng mã gây tốn kém, tiềm ẩn nguy cơ cháy, nổ; tình trạng xả rác bừa bãi vẫn còn diễn ra trong một số lễ hội làm ảnh hưởng không gian tổ chức lễ hội. Trong việc hiếu, hỉ, vẫn còn hiện tượng tổ chức đám cưới linh đình, tốn kém; tổ chức đám tang trong nhiều ngày gây ô nhiễm môi trường; lối sống, nếp sống văn hóa truyền thống tốt đẹp đang có biểu hiện suy giảm.
Vẫn còn biểu hiện xuống cấp, suy thoái về đạo đức, lối sống. Đạo đức nghề nghiệp của một số ngành, nghề, nhất là những ngành, nghề vốn nhân văn, cao quý, như ngành giáo dục - đào tạo, có biểu hiện xuống cấp, gây nên những bức xúc, tạo hệ lụy xấu trong đời sống xã hội. Văn hóa ứng xử giữa con người với tự nhiên còn nhiều hạn chế, khiến môi trường sinh thái bị xâm hại. Đó là hiện tượng khai thác cạn kiệt nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, như chặt phá rừng, sử dụng nguồn nước ngầm thái quá... đã phá vỡ các quy luật vốn có của tự nhiên dẫn đến hệ quả xấu. Môi trường thiên nhiên bị hủy hoại ngày càng tác động tiêu cực trở lại đến đời sống của con người, như hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn, triều cường, nước biển dâng, sạt lở núi, đồi, sạt lở ven sông, ảnh hưởng đến đời sống người dân.
Việc xây dựng mối quan hệ giữa con người với con người cũng chưa được chú ý đúng mức. Lối sống vì mình, quên người; vì lợi, bỏ nghĩa có nguy cơ lan rộng và bào mòn nhân tính của con người. Quan hệ giữa người và người dễ bị lấn át, che khuất trong các mối quan hệ trao đổi hàng - tiền, tiền - tiền, tiền và vật chất,... đã vô tình tạo ra cách nhìn nhận và đánh giá con người thông qua giá trị của cải vật chất, mà không phải là giá trị tình cảm trong sáng, nhân văn vốn là vốn quý trong đạo đức, lối sống truyền thống mà cha ông ta đã để lại.
Tệ nạn xã hội gia tăng, gây hậu quả nghiêm trọng. Tính chất và số lượng các vụ án ma túy, mại dâm, cướp bóc, trấn lột, giết người... vẫn đang diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp. Tỷ lệ thanh thiếu niên gây ra các vụ án ngày một tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Tình trạng bạo hành gia đình, bạo lực học đường, xâm phạm trẻ em... vẫn là những vấn đề nóng trong xã hội. Đặc biệt, ở một số vùng nông thôn, phụ nữ và trẻ em vẫn là những đối tượng chính trong các vụ án mua bán người. Các tệ nạn xã hội, như cờ bạc, buôn lậu, mua bán trái phép chất ma túy, cá độ, tín dụng đen, cho vay nặng lãi... hoạt động ngày một tinh vi và thách thức cán bộ quản lý, gây nên những bức xúc trong xã hội. Vẫn còn hiện tượng du nhập, truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, hoạt động thiếu lành mạnh thông qua các cơ sở dịch vụ văn hóa, như vũ trường, karaoke, in-tơ-nét công cộng...
Thứ tư, tính ổn định, bền vững của những giá trị truyền thống tích cực trong đời sống văn hóa chưa cao. Tốc độ đô thị hóa, xu thế nông thôn hóa thành thị đang phá vỡ nền tảng văn hóa truyền thống, nhiều giá trị văn hóa truyền thống bị xói mòn hoặc bị phá vỡ như giá trị văn hóa làng, xã. Sự bền vững của nền tảng gia đình truyền thống bị lay chuyển, bản sắc văn hóa có nguy cơ suy giảm; các giá trị văn hóa trong gia đình, dòng họ, làng, xã có biểu hiện ngày càng đi xuống; từ đó, ảnh hưởng tới việc nuôi dưỡng và rèn nhân cách con người. Sự phân cực giàu nghèo, biến đổi khí hậu, tình trạng ô nhiễm môi trường sống vẫn tồn tại đã và đang làm biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, khiến cho cuộc sống thường ngày của người dân bị ảnh hưởng. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa gặp nhiều khó khăn, bấp cập; nhiều di sản văn hóa bị xuống cấp, xâm phạm, ảnh hưởng tới sự tôn nghiêm của di sản. Nhiều phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp của các dân tộc bị ảnh hưởng do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa làm mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc, vùng, miền. Một số phong tục, tập quán cũ không còn phù hợp, trong khi đó các giá trị văn hóa mới chậm hình thành, chưa được khẳng định trong đời sống xã hội hiện nay; một số hình thức văn hóa, lối sống không lành mạnh thâm nhập về nông thôn, làm mất đi nét đẹp mang tính văn hóa truyền thống làng, xã ở nông thôn.
Thứ năm, các thiết chế văn hóa, chưa phát huy được hết chức năng, chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Một số nhà văn hóa, trung tâm văn hóa chỉ tồn tại mang tính hình thức, mà không có hoạt động văn hóa, sinh hoạt văn hóa thực chất, chưa thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia; một số hoạt động cầm chừng, trang thiết bị, sách, báo còn thiếu nhiều,...
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém trên, chủ yếu ở mấy điểm sau đây:
- Nhận thức về xây dựng môi trường văn hóa chưa đầy đủ, toàn diện và thấu đáo: Một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ nên chưa có sự quan tâm đúng mức trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, chưa cụ thể hóa bằng các biện pháp, kế hoạch và chương trình, thậm chí có tình trạng buông lỏng trong quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa.
- Công tác tuyên truyền chưa đạt hiệu quả tối ưu: Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về xây dựng đời sống văn hóa nói riêng và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh nói chung chưa được thực hiện thường xuyên, bài bản, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng trong việc tham gia xây dựng môi trường văn hóa. Các hình thức tuyên truyền, giáo dục chưa phong phú và ít hiệu quả, còn mang tính hình thức, chưa đi sâu vào thực chất. Các hoạt động văn hóa chưa thực sự thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.
- Xã hội hóa trong xây dựng môi trường văn hóa đạt hiệu quả thấp: Xây dựng nếp sống, lối sống văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa là công việc của toàn xã hội. Việc thực hiện xã hội hóa trong xây dựng nếp sống, lối sống văn hóa và môi trường văn hóa tuy đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng chưa thu hút được sự tham gia đông đảo của các tổ chức, cá nhân và các tầng lớp nhân dân; vì vậy, các phong trào, các hoạt động văn hóa chưa phát triển bền vững, còn mang tính hình thức; chưa thực sự gắn kết với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái gắn với xây dựng môi trường văn hóa.
- Công tác nghiên cứu khoa học chưa đáp ứng được đòi hỏi, yêu cầu thực tiễn đang đặt ra: Mặc dù công tác nghiên cứu khoa học về văn hóa và môi trường văn hóa đã được quan tâm, song chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu có giá trị về lý luận và thực tiễn sâu sắc, cung cấp những luận cứ khoa học xác đáng, kiến giải cho những hiện tượng, vấn đề mới đang phát sinh trong môi trường văn hóa, để trên cơ sở đó, định hướng cho công tác quản lý và tổ chức thực hiện xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay.
Giải pháp xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh
Trên cơ sở các thành tựu đã đạt được và những bất cập, yếu kém cần khắc phục, từ thực tiễn môi trường văn hóa trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của môi trường văn hóa trong sự phát triển bền vững, cũng như nội dung của xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý nhà nước, hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách: Để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tiến bộ, là nền tảng tinh thần của xã hội, nhất thiết phải có hệ thống pháp luật hướng tới việc bảo vệ các giá trị, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hóa tốt đẹp, bảo vệ, tôn trọng quyền làm chủ của người khác, của cộng đồng. Thông qua vai trò quản lý nhà nước, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, dùng luật pháp để điều chỉnh hành vi con người cho phù hợp, nhằm dần trở thành ý thức tự giác của mỗi người, hướng tới thực hiện chuẩn mực về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hóa.
Thứ ba, quan tâm đầu tư, đào tạo nguồn lực xây dựng môi trường văn hóa: Phải có cơ chế, chính sách đầu tư, đào tạo nguồn lực, trước tiên là củng cố bộ máy cơ quan nhà nước đủ mạnh để tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Có chính sách phát triển văn hóa tương ứng với phát triển kinh tế, đầu tư về nguồn lực con người, nguồn lực tài chính nhằm hoàn thiện các thể chế, thiết chế văn hóa phục vụ xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Thứ tư, nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, thực hiện chế độ tôn vinh khen thưởng kịp thời: Đặc biệt chú trọng các phong trào hạt nhân, như phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa và phong trào thi đua người tốt, việc tốt và các điển hình tiên tiến. Thường xuyên chú trọng công tác tôn vinh, khen thưởng những điển hình tiên tiến về tư tưởng, đạo đức, lối sống, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Tiếp tục đẩy mạnh việc nêu gương người tốt, việc tốt; lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi tiêu cực; đồng thời, phê phán, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, vi phạm những chuẩn mực đạo đức, lối sống.
Thứ năm, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng môi trường văn hóa gắn với xây dựng môi trường kinh tế - xã hội: Sự kết hợp giữa môi trường văn hóa và môi trường kinh tế - xã hội đều nhằm đạt tới sự lành mạnh, tiến bộ, phát triển cho con người và xã hội. Do đó, cần phải thực hiện nghiên cứu khoa học, kiểm kê, đánh giá tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống, nếp sống truyền thống, để trên cơ sở đó, cái gì tốt thì kế thừa, cái gì xấu, cản trở sự phát triển phải loại ra khỏi đời sống thực tiễn. Ngày nay, trong điều kiện mở cửa, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, để xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta cần tiếp thu những giá trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hóa, văn minh tiến bộ của các dân tộc; đồng thời, phải chống lại những yếu tố phản động, đồi trụy, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc đang tác động vào môi trường văn hóa của chúng ta./.
-----------------------
(1) Ban Chỉ đạo Trung ương Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa: Báo cáo tổng kết 18 năm thực hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”(2010 - 2018), Hà Nội, 2018
(2) Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở): “Thực hiện chính sách xã hội hóa trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, thực trạng và giải pháp”, Bài tham luận trong Tài liệu Hội nghị tham vấn chuyên gia về tình hình thực hiện nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Quốc hội khóa XIV, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, thanh niên, thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội, tháng 7-2017, tr. 5
Vấn đề di cư của đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc  (13/10/2021)
Phát huy bản sắc văn hóa, con người, khơi dậy khát vọng phát triển Thủ đô nghìn năm văn hiến  (11/10/2021)
Nâng cao hiệu quả các hoạt động văn hóa Thủ đô gắn với xây dựng thương hiệu “Thành phố sáng tạo”  (08/10/2021)
Thành phố Hà Nội: Thúc đẩy các hoạt động nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao văn hóa  (23/09/2021)
Biểu tượng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy Việt Nam  (18/07/2021)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam