Định hướng đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay
10:12, ngày 26-12-2017
TCCSĐT - Trong gần 30 năm qua, Việt Nam từng bước tiến hành giáo dục quyền con người cả trong và ngoài nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Hiện nay, trên cơ sở kết quả đã đạt được, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân” theo Quyết định số 1309/QĐ -TTg (ngày 05-9-2017). Để góp phần bảo đảm tổ chức triển khai, thực hiện Đề án này một cách thống nhất và hiệu quả, có thể và nên nhất quán bám sát theo một số định hướng nhất định.
Đưa nội dung quyền con người từng bước trở thành một nội dung giáo dục độc lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và gắn với giáo dục quyền công dân
Hiện nay giáo dục quyền con người, nhất là giáo dục ngoài nhà trường, chủ yếu được thực hiện theo kế hoạch, dự án đã được phê duyệt, được hỗ trợ về tài chính, mà chưa chủ động thực hiện hoạt động này một cách tích cực, ổn định, thường xuyên. Vì thế cần thúc đẩy giáo dục quyền con người từng bước trở thành một nội dung giáo dục độc lập trong hệ thống giáo dục quốc dân, trên cơ sở bảo đảm tính tư tưởng, tính khoa học và tính thực tiễn, góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển toàn diện con người ở Việt Nam.
Giáo dục quyền con người theo các điều ước quốc tế trong một số trường hợp còn chưa được gắn kết chặt chẽ với giáo dục quyền công dân theo pháp luật Việt Nam. Thí dụ chưa gắn kết giáo dục Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em với giáo dục Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam; hay giáo dục Công ước Liên hợp quốc về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) với giáo dục Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam. Do đó, phải khắc phục hạn chế này nhằm bảo đảm thực hiện giáo dục một cách thống nhất hai nội dung trên. Giáo dục quyền con người, quyền công dân được thực hiện đồng thời trong mối quan hệ biện chứng với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, pháp luật và các dạng giáo dục kiến thức khác.
Việc bảo đảm giáo dục một cách thống nhất hai nội dung quyền con người và quyền công dân là để giáo dục pháp luật quốc tế về quyền con người gắn liền với giáo dục pháp luật quốc gia về quyền công dân ở Việt Nam. Chỉ có như vậy, khía cạnh giáo dục này mới là tiền đề cho nhận thức của khía cạnh giáo dục kia và ngược lại. Nếu không kết hợp giáo dục quyền con người với giáo dục quyền công dân, thì không thể nhận thức và tiến hành bảo vệ, bảo đảm quyền con người phù hợp với thể chế và hoàn cảnh trong nước.
Thực tế cho thấy, giáo dục mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền công dân là yêu cầu và cũng là nội dung cơ bản, tất yếu trong giáo dục quyền con người tại tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc tuyên truyền, phổ biến các điều ước quốc tế về quyền con người phải đi đôi với tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật quốc gia về quyền công dân. Thông qua đó, làm rõ nguyên tắc tính thống nhất và tính khác biệt, tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người khi xem xét, giải quyết những vấn đề cụ thể, có tính thực tiễn về quyền công dân ở mỗi nước.
Giáo dục đầy đủ các nội dung quyền con người cho tất cả các tầng lớp nhân dân
Cho đến nay, giáo dục quyền con người chưa được thực hiện rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân. Thí dụ giáo dục quyền và bổn phận của trẻ em Việt Nam mới chỉ được thực hiện mang tính thử nghiệm ở một bộ phận trẻ em, học sinh cấp tiểu học, trung học cơ sở tại một số địa phương có điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện. Còn đa số trẻ em, đặc biệt trẻ em ở các vùng sâu, vùng xa, trẻ em dân tộc thiểu số vẫn chưa được quan tâm thực hiện thường xuyên. Việc giáo dục quyền phụ nữ, thực chất mới chủ yếu giới hạn ở đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý hội và tại một số vùng có điều kiện thuận lợi, mà chưa được thực hiện sâu rộng trong toàn thể hội viên, nhất là đối với phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa và phụ nữ dân tộc thiểu số.
Quyền con người, trong đó có quyền được giáo dục tất cả các nội dung quyền con người, là quyền của mỗi người và của mọi người. Để bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể quyền, giáo dục quyền con người không chỉ tập trung vào giáo dục các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của phụ nữ, trẻ em như hiện nay, mà giáo dục tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của tất cả các tầng lớp nhân dân, cả về lứa tuổi (mầm non, học sinh phổ thông, sinh viên, học viên đại học, trên đại học và nghề nghiệp) và cả về giai tầng (công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, bộ đội, công an, người dễ bị tổn thương,...) trong xã hội. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, định hướng giáo dục quyền con người là thực hiện giáo dục tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa; trong đó coi trọng đúng mức tầm quan trọng của việc giáo dục các quyền dân sự, chính trị, nhằm hoàn thiện thể chế pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhà nước và khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc định hướng, điều tiết việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm tất cả các quyền con người theo Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
Thông qua giáo dục đầy đủ nội dung các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa; quyền cá nhân và quyền tập thể; quyền con người và quyền công dân cho tất cả các tầng lớp nhân dân, sẽ truyền tải và định hình trong từng con người - công dân Việt Nam sự hiểu biết về quyền con người, để biến “nhân quyền” từ một vấn đề mang tính nhạy cảm, dễ bị chính trị hóa trở thành mục tiêu chung, cách tiếp cận chung của các chủ thể quyền con người và của các chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền con người (nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội,...).
Bảo đảm tính hệ thống và liên thông của giáo dục quyền con người với các chương trình, nội dung giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân trên cơ sở phương pháp giáo dục dựa trên quyền của người học
Định hướng này được thực hiện bằng chương trình giáo dục quyền con người có tính độc lập ở bậc đại học và trên đại học (thạc sĩ, tiến sĩ) tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội (trên đại học),... và môn Quyền con người tại các trường đại học (hay khoa) luật kết hợp với chương trình giáo dục theo cách lồng ghép nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục của một số môn khác thuộc tất cả các bậc giáo dục (từ mầm non, phổ thông đến đại học và nghề nghiệp). Chương trình giáo dục quyền con người có tính độc lập tập trung giáo dục “về quyền con người”, còn các chương trình, nội dung giáo dục khác có lồng ghép nội dung quyền con người hướng vào việc giáo dục “vì quyền con người”. Cả hai đều được giáo dục trên cơ sở cách tiếp cận dựa trên quyền con người; tức là quá trình dạy và học được thực hiện trên cơ sở tôn trọng quyền của người học; và coi trọng nghĩa vụ của người dạy trong việc bảo đảm quyền của người học.
Nếu giáo dục “về quyền con người” tập trung vào kiến thức, phương pháp về lý luận, pháp luật nhân quyền, thì giáo dục “vì quyền con người” xuất phát từ nhân phẩm, giá trị là người và làm người để tìm hiểu, nắm bắt được thông tin, kiến thức khoa học chuyên ngành, trên cơ sở sự giải trình một cách minh bạch của người dạy và sự tham gia chủ động, tích cực trong việc học (và) tập của người học. Thông qua sự tương tác trong quá trình giảng dạy - học tập, thông tin, kiến thức mà người học tiếp thu, chiếm lĩnh và giành được sẽ tương thích với họ, bền vững và sẵn sàng được vận dụng vào cuộc sống.
Cả hai dạng giáo dục nêu trên, tuy cách thức khác nhau nhưng đều là phương pháp giáo dục dựa trên quyền của người học. Phương pháp giáo dục này cơ bản nên tập trung vào giáo dục kỹ năng sống. Bởi lẽ, chỉ bằng những chủ đề, cách kiến giải, ngôn ngữ giản dị và có tính cởi mở, tập trung vào kỹ năng sống trong đời sống thường nhật, mới có thể khêu gợi tình cảm, sức mạnh tinh thần và ý chí bất tận ở con người. Thông qua đó, khắc phục kiểu giáo dục bằng những chủ đề, cách kiến giải, ngôn ngữ theo kiểu “cao siêu”, thuần túy lý luận, xa cách với đạo lý và cách ứng xử truyền thống của người Việt Nam. Giáo dục quyền con người trước hết nên tác động (hay lay động) tâm hồn, tình cảm, đặc biệt ở bậc giáo dục mẫu giáo và phổ thông, để từ đó, tác động, kích thích tư duy con người về cách sống nhân bản, về đối nhân xử thế theo hướng tôn trọng, bảo vệ, thực hiện, thúc đẩy quyền của mình và của người khác.
Rà soát, chỉnh lý, xây dựng, hoàn thiện chương trình, giáo trình, tài liệu giáo dục và ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục quyền con người
Hiện nay, nguồn lực cho giáo dục quyền con người còn nhiều hạn chế, bất cập. Đặc biệt, đội ngũ giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục chưa được trang bị các kiến thức cơ bản về quyền con người một cách bài bản. Các tài liệu và học liệu giảng dạy, học tập về quyền con người ở các cơ sở đào tạo chủ yếu là tài liệu quốc tế; có rất ít tài liệu trong nước. Những hạn chế, bất cập này khiến cho hoạt động giáo dục về quyền con người không những đạt kết quả hạn chế, mà còn mang tính thụ động, phụ thuộc.
Vì thế, cần xúc tiến việc rà soát, xây dựng, chỉnh lý, hoàn thiện chương trình, giáo trình, tài liệu giáo dục và biên soạn, xuất bản tài liệu giáo dục, giáo trình mới phù hợp với từng nhóm đối tượng giáo dục cụ thể, để có thể vận dụng vào các chương trình giáo dục trong và ngoài nhà trường. Đồng thời, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục quyền con người. Mục tiêu cơ bản là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên có khả năng giảng dạy các môn học riêng và lồng ghép các nội dung quyền con người vào các nội dung giáo dục, đào tạo cho từng cấp giáo dục, đào tạo, từ giáo dục mầm non, phổ thông đến đại học, trên đại học và nghề nghiệp.
Bảo đảm tính thống nhất và mối tương tác giữa giáo dục quyền con người trong và ngoài nhà trường
Chương trình giáo dục của các nhà trường (gồm giáo dục phổ thông, đại học, trên đại học và nghề nghiệp) và giáo dục ngoài nhà trường (giáo dục trong các tổ chức chính trị, xã hội và trên các phương tiện truyền thông) đều thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nhằm mục tiêu chung là xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời. Việc đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân, cả trong và ngoài nhà trường, là để kiến thức nhân quyền từng bước thấm sâu vào tư tưởng, đạo đức, lối sống của mỗi người, nhằm góp phần thúc đẩy việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thực tế và góp phần hình thành văn hóa nhân quyền ở nước ta. Thông qua đó, nâng cao nhận thức, năng lực của các chủ thể trong xã hội (cá nhân, gia đình, cộng đồng và tất cả các thành phần kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp,...) trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người ở nước ta.
Công tác giáo dục ngoài nhà trường dành cho các đối tượng là những người lao động đang làm việc trong khu vực nhà nước, doanh nghiệp và trong các tổ chức chính trị, xã hội hoặc cho những người không còn cơ hội và khả năng học tập ở trường. Cho nên việc đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục ngoài nhà trường đóng vai trò trước tiên và cơ bản đối với quá trình xã hội hóa giáo dục quyền con người; còn giáo dục trong nhà trường đóng vai trò nền tảng giáo dục quyền con người của hệ thống giáo dục quốc dân. Do đó, cần phải tăng cường mối quan hệ tương tác, bổ sung để giúp phát hiện, khắc phục hạn chế của mỗi loại hình giáo dục nhằm cùng xây dựng xã hội học tập ở nước ta. Thông qua đó, cùng với việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục quyền con người, sẽ huy động được nguồn tài chính thích ứng để đẩy mạnh giáo dục quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung.
Nghiên cứu thành lập “Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục quyền con người, quyền công dân” và trang thông tin điện tử về “Giáo dục quyền con người”
Cho đến nay, ở nước ta mới chỉ có Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam và Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam chuyên trách về quyền của phụ nữ và quyền của trẻ em. Hoạt động giáo dục của hai tổ chức này cũng chỉ tập trung vào việc giáo dục quyền phụ nữ và trẻ em. Trong khi đó, hoạt động giáo dục quyền con người chỉ là một phần trong hoạt động giáo dục pháp luật do Vụ Tuyên truyền pháp luật thuộc Bộ Tư pháp và do “Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật” các cấp phối hợp thực hiện từ trung ương đến cơ sở xã, phường, thị trấn.
Vì vậy, có thể nghiên cứu thành lập “Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục quyền con người, quyền công dân”, nhằm tăng cường và điều tiết công tác đưa giáo dục quyền con người vào hệ thống giáo dục quốc dân, cả trong và ngoài nhà trường. Cùng với đó, xây dựng trang thông tin điện tử về “Giáo dục quyền con người”; trong đó chứa đựng thông tin, tài liệu giáo dục, tài liệu tham khảo, và mục diễn đàn trao đổi chuyên môn giành cho tuyên truyền viên, báo cáo viên, giáo viên, giảng viên giảng dạy về quyền con người. Ngoài ra, cán bộ quản lý giáo dục, sinh viên, học sinh cũng có thể truy cập thông tin trên mạng này về giáo dục quyền con người./.
--------------------
Tài liệu tham khảo:
1/ Báo cáo thực hiện Đề án “Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nhân quyền trong các trường chính trị - hành chính và các trường đại học giai đoạn 2011-2015”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2015.
2/ Báo cáo thực hiện Đề án: Nghiên cứu đưa nội dung nhân quyền vào chương trình giáo dục của các tổ chức chính trị, xã hội và hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2017.
3/ Nguyễn Thanh Tuấn, Quán triệt và vận dụng quan điểm Đại hội XII của Đảng vào giáo dục quyền con người trong các tổ chức chính trị, xã hội ở Việt Nam hiện nay, trong:Văn kiện Đại hội XII của Đảng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr.530-536.
Hiện nay giáo dục quyền con người, nhất là giáo dục ngoài nhà trường, chủ yếu được thực hiện theo kế hoạch, dự án đã được phê duyệt, được hỗ trợ về tài chính, mà chưa chủ động thực hiện hoạt động này một cách tích cực, ổn định, thường xuyên. Vì thế cần thúc đẩy giáo dục quyền con người từng bước trở thành một nội dung giáo dục độc lập trong hệ thống giáo dục quốc dân, trên cơ sở bảo đảm tính tư tưởng, tính khoa học và tính thực tiễn, góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển toàn diện con người ở Việt Nam.
Giáo dục quyền con người theo các điều ước quốc tế trong một số trường hợp còn chưa được gắn kết chặt chẽ với giáo dục quyền công dân theo pháp luật Việt Nam. Thí dụ chưa gắn kết giáo dục Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em với giáo dục Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam; hay giáo dục Công ước Liên hợp quốc về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) với giáo dục Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam. Do đó, phải khắc phục hạn chế này nhằm bảo đảm thực hiện giáo dục một cách thống nhất hai nội dung trên. Giáo dục quyền con người, quyền công dân được thực hiện đồng thời trong mối quan hệ biện chứng với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, pháp luật và các dạng giáo dục kiến thức khác.
Việc bảo đảm giáo dục một cách thống nhất hai nội dung quyền con người và quyền công dân là để giáo dục pháp luật quốc tế về quyền con người gắn liền với giáo dục pháp luật quốc gia về quyền công dân ở Việt Nam. Chỉ có như vậy, khía cạnh giáo dục này mới là tiền đề cho nhận thức của khía cạnh giáo dục kia và ngược lại. Nếu không kết hợp giáo dục quyền con người với giáo dục quyền công dân, thì không thể nhận thức và tiến hành bảo vệ, bảo đảm quyền con người phù hợp với thể chế và hoàn cảnh trong nước.
Thực tế cho thấy, giáo dục mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền công dân là yêu cầu và cũng là nội dung cơ bản, tất yếu trong giáo dục quyền con người tại tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc tuyên truyền, phổ biến các điều ước quốc tế về quyền con người phải đi đôi với tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật quốc gia về quyền công dân. Thông qua đó, làm rõ nguyên tắc tính thống nhất và tính khác biệt, tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người khi xem xét, giải quyết những vấn đề cụ thể, có tính thực tiễn về quyền công dân ở mỗi nước.
Giáo dục đầy đủ các nội dung quyền con người cho tất cả các tầng lớp nhân dân
Cho đến nay, giáo dục quyền con người chưa được thực hiện rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân. Thí dụ giáo dục quyền và bổn phận của trẻ em Việt Nam mới chỉ được thực hiện mang tính thử nghiệm ở một bộ phận trẻ em, học sinh cấp tiểu học, trung học cơ sở tại một số địa phương có điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện. Còn đa số trẻ em, đặc biệt trẻ em ở các vùng sâu, vùng xa, trẻ em dân tộc thiểu số vẫn chưa được quan tâm thực hiện thường xuyên. Việc giáo dục quyền phụ nữ, thực chất mới chủ yếu giới hạn ở đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý hội và tại một số vùng có điều kiện thuận lợi, mà chưa được thực hiện sâu rộng trong toàn thể hội viên, nhất là đối với phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa và phụ nữ dân tộc thiểu số.
Quyền con người, trong đó có quyền được giáo dục tất cả các nội dung quyền con người, là quyền của mỗi người và của mọi người. Để bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể quyền, giáo dục quyền con người không chỉ tập trung vào giáo dục các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của phụ nữ, trẻ em như hiện nay, mà giáo dục tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của tất cả các tầng lớp nhân dân, cả về lứa tuổi (mầm non, học sinh phổ thông, sinh viên, học viên đại học, trên đại học và nghề nghiệp) và cả về giai tầng (công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, bộ đội, công an, người dễ bị tổn thương,...) trong xã hội. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, định hướng giáo dục quyền con người là thực hiện giáo dục tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa; trong đó coi trọng đúng mức tầm quan trọng của việc giáo dục các quyền dân sự, chính trị, nhằm hoàn thiện thể chế pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhà nước và khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc định hướng, điều tiết việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm tất cả các quyền con người theo Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
Thông qua giáo dục đầy đủ nội dung các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa; quyền cá nhân và quyền tập thể; quyền con người và quyền công dân cho tất cả các tầng lớp nhân dân, sẽ truyền tải và định hình trong từng con người - công dân Việt Nam sự hiểu biết về quyền con người, để biến “nhân quyền” từ một vấn đề mang tính nhạy cảm, dễ bị chính trị hóa trở thành mục tiêu chung, cách tiếp cận chung của các chủ thể quyền con người và của các chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền con người (nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội,...).
Bảo đảm tính hệ thống và liên thông của giáo dục quyền con người với các chương trình, nội dung giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân trên cơ sở phương pháp giáo dục dựa trên quyền của người học
Định hướng này được thực hiện bằng chương trình giáo dục quyền con người có tính độc lập ở bậc đại học và trên đại học (thạc sĩ, tiến sĩ) tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội (trên đại học),... và môn Quyền con người tại các trường đại học (hay khoa) luật kết hợp với chương trình giáo dục theo cách lồng ghép nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục của một số môn khác thuộc tất cả các bậc giáo dục (từ mầm non, phổ thông đến đại học và nghề nghiệp). Chương trình giáo dục quyền con người có tính độc lập tập trung giáo dục “về quyền con người”, còn các chương trình, nội dung giáo dục khác có lồng ghép nội dung quyền con người hướng vào việc giáo dục “vì quyền con người”. Cả hai đều được giáo dục trên cơ sở cách tiếp cận dựa trên quyền con người; tức là quá trình dạy và học được thực hiện trên cơ sở tôn trọng quyền của người học; và coi trọng nghĩa vụ của người dạy trong việc bảo đảm quyền của người học.
Nếu giáo dục “về quyền con người” tập trung vào kiến thức, phương pháp về lý luận, pháp luật nhân quyền, thì giáo dục “vì quyền con người” xuất phát từ nhân phẩm, giá trị là người và làm người để tìm hiểu, nắm bắt được thông tin, kiến thức khoa học chuyên ngành, trên cơ sở sự giải trình một cách minh bạch của người dạy và sự tham gia chủ động, tích cực trong việc học (và) tập của người học. Thông qua sự tương tác trong quá trình giảng dạy - học tập, thông tin, kiến thức mà người học tiếp thu, chiếm lĩnh và giành được sẽ tương thích với họ, bền vững và sẵn sàng được vận dụng vào cuộc sống.
Cả hai dạng giáo dục nêu trên, tuy cách thức khác nhau nhưng đều là phương pháp giáo dục dựa trên quyền của người học. Phương pháp giáo dục này cơ bản nên tập trung vào giáo dục kỹ năng sống. Bởi lẽ, chỉ bằng những chủ đề, cách kiến giải, ngôn ngữ giản dị và có tính cởi mở, tập trung vào kỹ năng sống trong đời sống thường nhật, mới có thể khêu gợi tình cảm, sức mạnh tinh thần và ý chí bất tận ở con người. Thông qua đó, khắc phục kiểu giáo dục bằng những chủ đề, cách kiến giải, ngôn ngữ theo kiểu “cao siêu”, thuần túy lý luận, xa cách với đạo lý và cách ứng xử truyền thống của người Việt Nam. Giáo dục quyền con người trước hết nên tác động (hay lay động) tâm hồn, tình cảm, đặc biệt ở bậc giáo dục mẫu giáo và phổ thông, để từ đó, tác động, kích thích tư duy con người về cách sống nhân bản, về đối nhân xử thế theo hướng tôn trọng, bảo vệ, thực hiện, thúc đẩy quyền của mình và của người khác.
Rà soát, chỉnh lý, xây dựng, hoàn thiện chương trình, giáo trình, tài liệu giáo dục và ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục quyền con người
Hiện nay, nguồn lực cho giáo dục quyền con người còn nhiều hạn chế, bất cập. Đặc biệt, đội ngũ giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục chưa được trang bị các kiến thức cơ bản về quyền con người một cách bài bản. Các tài liệu và học liệu giảng dạy, học tập về quyền con người ở các cơ sở đào tạo chủ yếu là tài liệu quốc tế; có rất ít tài liệu trong nước. Những hạn chế, bất cập này khiến cho hoạt động giáo dục về quyền con người không những đạt kết quả hạn chế, mà còn mang tính thụ động, phụ thuộc.
Vì thế, cần xúc tiến việc rà soát, xây dựng, chỉnh lý, hoàn thiện chương trình, giáo trình, tài liệu giáo dục và biên soạn, xuất bản tài liệu giáo dục, giáo trình mới phù hợp với từng nhóm đối tượng giáo dục cụ thể, để có thể vận dụng vào các chương trình giáo dục trong và ngoài nhà trường. Đồng thời, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục quyền con người. Mục tiêu cơ bản là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên có khả năng giảng dạy các môn học riêng và lồng ghép các nội dung quyền con người vào các nội dung giáo dục, đào tạo cho từng cấp giáo dục, đào tạo, từ giáo dục mầm non, phổ thông đến đại học, trên đại học và nghề nghiệp.
Bảo đảm tính thống nhất và mối tương tác giữa giáo dục quyền con người trong và ngoài nhà trường
Chương trình giáo dục của các nhà trường (gồm giáo dục phổ thông, đại học, trên đại học và nghề nghiệp) và giáo dục ngoài nhà trường (giáo dục trong các tổ chức chính trị, xã hội và trên các phương tiện truyền thông) đều thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nhằm mục tiêu chung là xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời. Việc đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân, cả trong và ngoài nhà trường, là để kiến thức nhân quyền từng bước thấm sâu vào tư tưởng, đạo đức, lối sống của mỗi người, nhằm góp phần thúc đẩy việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thực tế và góp phần hình thành văn hóa nhân quyền ở nước ta. Thông qua đó, nâng cao nhận thức, năng lực của các chủ thể trong xã hội (cá nhân, gia đình, cộng đồng và tất cả các thành phần kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp,...) trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người ở nước ta.
Công tác giáo dục ngoài nhà trường dành cho các đối tượng là những người lao động đang làm việc trong khu vực nhà nước, doanh nghiệp và trong các tổ chức chính trị, xã hội hoặc cho những người không còn cơ hội và khả năng học tập ở trường. Cho nên việc đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục ngoài nhà trường đóng vai trò trước tiên và cơ bản đối với quá trình xã hội hóa giáo dục quyền con người; còn giáo dục trong nhà trường đóng vai trò nền tảng giáo dục quyền con người của hệ thống giáo dục quốc dân. Do đó, cần phải tăng cường mối quan hệ tương tác, bổ sung để giúp phát hiện, khắc phục hạn chế của mỗi loại hình giáo dục nhằm cùng xây dựng xã hội học tập ở nước ta. Thông qua đó, cùng với việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục quyền con người, sẽ huy động được nguồn tài chính thích ứng để đẩy mạnh giáo dục quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung.
Nghiên cứu thành lập “Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục quyền con người, quyền công dân” và trang thông tin điện tử về “Giáo dục quyền con người”
Cho đến nay, ở nước ta mới chỉ có Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam và Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam chuyên trách về quyền của phụ nữ và quyền của trẻ em. Hoạt động giáo dục của hai tổ chức này cũng chỉ tập trung vào việc giáo dục quyền phụ nữ và trẻ em. Trong khi đó, hoạt động giáo dục quyền con người chỉ là một phần trong hoạt động giáo dục pháp luật do Vụ Tuyên truyền pháp luật thuộc Bộ Tư pháp và do “Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật” các cấp phối hợp thực hiện từ trung ương đến cơ sở xã, phường, thị trấn.
Vì vậy, có thể nghiên cứu thành lập “Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục quyền con người, quyền công dân”, nhằm tăng cường và điều tiết công tác đưa giáo dục quyền con người vào hệ thống giáo dục quốc dân, cả trong và ngoài nhà trường. Cùng với đó, xây dựng trang thông tin điện tử về “Giáo dục quyền con người”; trong đó chứa đựng thông tin, tài liệu giáo dục, tài liệu tham khảo, và mục diễn đàn trao đổi chuyên môn giành cho tuyên truyền viên, báo cáo viên, giáo viên, giảng viên giảng dạy về quyền con người. Ngoài ra, cán bộ quản lý giáo dục, sinh viên, học sinh cũng có thể truy cập thông tin trên mạng này về giáo dục quyền con người./.
--------------------
Tài liệu tham khảo:
1/ Báo cáo thực hiện Đề án “Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nhân quyền trong các trường chính trị - hành chính và các trường đại học giai đoạn 2011-2015”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2015.
2/ Báo cáo thực hiện Đề án: Nghiên cứu đưa nội dung nhân quyền vào chương trình giáo dục của các tổ chức chính trị, xã hội và hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2017.
3/ Nguyễn Thanh Tuấn, Quán triệt và vận dụng quan điểm Đại hội XII của Đảng vào giáo dục quyền con người trong các tổ chức chính trị, xã hội ở Việt Nam hiện nay, trong:Văn kiện Đại hội XII của Đảng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr.530-536.
Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Tân Trào  (25/12/2017)
Tiếp tục tạo điều kiện cho vùng Tây Bắc phát triển bền vững  (25/12/2017)
Triển khai Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018  (25/12/2017)
Không để gián đoạn công tác cấp cứu, điều trị bệnh nhân trong bão  (25/12/2017)
Công tác tuyên giáo góp phần hoàn thành các chỉ tiêu phát triển đất nước  (25/12/2017)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển