Phát huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo Trúc lâm Yên tử trong dòng chảy văn hóa Việt Nam

NCS Nguyễn Danh Long
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
09:38, ngày 27-06-2024

TCCS - Trong quá trình phát triển, Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử có ảnh hưởng lớn trong đời sống văn hóa xã hội đương thời, đồng thời đóng vai trò quan trọng đối với việc hình thành nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó, Bảo đình hành trì bí chỉ toàn chương là tác phẩm tiêu biểu cho hoạt động thực hành tín ngưỡng, thể hiện đặc trưng của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, mang tính nhân văn sâu sắc của Phật giáo thời Trần.

Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt đời sống xã hội ở Việt Nam. Lịch sử du nhập và truyền bá Phật giáo vào Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn 1: Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ III đánh dấu sự có mặt của Phật giáo, được ghi nhận là một tôn giáo, mang đậm hơi thở của Thiền Tông và Tịnh Độ Tông. Giai đoạn 2, từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ X, Phật giáo phát triển mạnh mẽ ở vùng đồng bằng sông Hồng, hình thành những trung tâm Phật giáo lớn như Luy Lâu (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh)... Sự có mặt của Phật giáo là một tôn giáo được dân chúng đón nhận rộng rãi với dấu ấn của hai thiền phái chính là Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Giai đoạn 3, tư tưởng của Phật giáo đã hòa quyện với đời sống tinh thần của người dân, gắn liền với phong tục, tín ngưỡng thờ cúng thần linh của người Việt, tạo nên nét riêng của Phật giáo Việt Nam. “Giai đoạn ba, từ nửa sau thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIV, tức cuối thời Trần. Có thể nói, đây là thời kỳ Phật giáo được phát triển cực thịnh mà đỉnh cao là sự thống nhất các thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường… lập nên Thiền phái Trúc Lâm ở Yên Tử, do sự hết lòng ủng hộ của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ”([1]).

Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIV (tương đương với giai đoạn Lý - Trần) đã hình thành dòng phái Phật giáo mới, đó là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Sự ra đời và phát triển rực rỡ của Phật giáo Trúc Lâm, một tổ chức giáo hội đầu tiên trong lịch sử Phật giáo nước nhà, cùng với sự hiện diện của ba vị Tổ sư người Việt, đó là Sơ Tổ Trần Nhân Tông, Nhị Tổ Pháp Loa và Tam Tổ Huyền Quang, đã tạo cho Phật giáo Trúc Lâm trở thành một biểu tượng giá trị tinh thần độc đáo. Tư tưởng Phật giáo Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử phát triển trong thời kỳ quốc gia Đại Việt độc lập tự chủ, có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa, xã hội Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đặt nền tảng cho sự phát triển văn hóa tư tưởng Phật giáo Việt Nam nói riêng, lịch sử văn hóa tư tưởng Việt Nam nói chung, với đặc tính căn bản là sự khoan hòa, có năng lực nhập thế cao và tinh thần dân tộc sâu sắc. 

Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử gắn liền với tên tuổi của Hoàng đế Trần Nhân Tông (1278 - 1293). Ngài là con trưởng của Thánh Tông Trần Hoảng, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu, sinh ngày 7-12-1258. Vua ở ngôi 15 năm (1278 - 1293), nhường ngôi cho con là Anh Tông và lên làm thái thượng hoàng 5 năm (1293 - 1298), xuất gia đi tu (1293 - 1308), viên tịch ngày 3-11 năm Mậu Thân (1308), thọ 51 tuổi. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Trần Nhân Tông, tên húy là Khâm, con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11, ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung đồng tử. Trên vai bên trái có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng. Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần”([2]). Dù là hoàng thái tử, bậc minh quân, là thái thượng hoàng, là thiền sư, thì Phật Hoàng Trần Nhân Tông vẫn muôn thuở ung dung giữa đời và đạo, trở thành hình tượng tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng. Với đời, ngài là vị vua anh minh kiệt xuất, đã lãnh đạo đoàn kết quân dân hai lần đánh thắng giặc Nguyên - Mông. Sau khi nhường ngôi cho con, ngài đã dành tâm huyết tìm kế sách khoan hòa trong nhân dân để ra chính sách dưỡng dân, an dân để xây dựng, phát triển mở mang đất nước. Ngài là thiền sư đắc đạo, người sáng lập, lãnh đạo Thiền phái Trúc Lâm, dòng thiền riêng có của Phật giáo Việt Nam. Với tấm lòng vì dân, với nhãn quan của một vị vua minh triết, một nhà sư giác ngộ, ngài chủ trương xây đạo để nuôi dưỡng, phát huy nhân tâm thuận hòa trong trăm họ, xây dựng, bồi đắp tính độc lập, sức tự cường, vun bồi sự hòa hợp trong thế gian, hòa hợp vua tôi, hòa hợp cha con, hòa hợp vợ chồng, hòa hợp gia đình, hòa hợp quốc gia… làm nên sức mạnh lâu bền của dân tộc.

Linh thiêng Yên Tử_Ảnh: Tư liệu

Sau khi Tổ Huyền Quang mất (1334), đến thế kỷ XVII, mới có tài liệu đề cập đến ngài Hương Hải (1625 - 1715), một thiền sư thuộc Thiền phái Trúc Lâm. Ngài đã tạo ra một âm hưởng lớn cho thiền phái sau một thời gian dài. Vào nửa cuối thế kỷ XVII, xuất hiện Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Hải. Ngài vốn đắc pháp ở tông Lâm Tế nhưng lại là người muốn làm cho tinh thần Thiền phái Trúc Lâm được truyền thừa mạnh mẽ. Ngài là tác giả cuốn Thiền tông bản hạnh, kể về cuộc đời tu hành và ngộ đạo của năm vị vua Trần. Đến cuối thế kỷ XX, Hòa thượng Thanh Từ xuất hiện, người có tâm huyết muốn tiếp tục sự nghiệp phát triển Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trong quyển Đại Nam Thiền uyển truyền đăng tập lục của Hòa thượng Thích Phúc Điền khắc in vào đầu năm Kỷ Mùi (1859) có liệt kê đến mười mấy thế hệ truyền thừa của Thiền phái Trúc Lâm sau ngài Huyền Quang, nhưng đây cũng chỉ là “những điều ông nghe về việc truyền thừa của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần”([3]).

Kể từ khi được Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập, trải qua thời gian, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được đánh giá là trang sử đặc biệt trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã hòa chung vào dòng chảy tinh thần đoàn kết toàn dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông. Bên cạnh đó, Phật giáo Trúc Lâm còn đóng góp vào kho tàng văn hóa Việt Nam nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể tiêu biểu, có giá trị, trải rộng trên nhiều lĩnh vực, như văn hóa, văn học - nghệ thuật, kiến trúc chùa chiền và thiền viện, nghệ thuật in ấn, hội họa… Trong thời gian Phật giáo Trúc Lâm hưng thịnh, số lượng tự viện trong cả nước có sự gia tăng, phong trào học Phật đạo lan rộng, số người xuất gia và quy y tăng lên mau chóng. Điều này càng cho thấy, Phật giáo thời Trần đã nắm bắt được cơ hội phát triển, đồng hành cùng dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước.

 Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử còn thể hiện vai trò quan trọng trong việc giữ nước. Quan điểm yêu nước phải đi đôi với thương dân đã làm cho tinh thần yêu nước của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử đến gần với chủ nghĩa yêu nước chân chính. Sự đồng hành bền vững giữa đạo và đời, giữa Phật tử, chúng sinh với xã hội ngày càng phát triển bền chặt và có sức lan tỏa đến tận ngày nay. Tư tưởng nhập thế của các vị Phật Hoàng đã tạo ra một mầu sắc riêng của Phật giáo thời Trần nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung.

Thiền phái Trúc Lâm đã nhập thế cùng dân tộc trong sự nghiệp phát triển đất nước, tạo nên bản sắc Thiền tông Đại Việt, đồng thời tác động mạnh mẽ vào đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Việc định hướng bảo vệ chủ quyền dân tộc, mở rộng biên cương, chấn hưng văn hóa Đại Việt của thời nhà Trần có sự đóng góp của tinh thần nhập thế, yêu nước, tích cực tham gia xây dựng xã hội, kiên trì tu tập, học hỏi giáo lý Phật giáo, nhờ đó cải thiện nền tảng đạo đức cá nhân, gia đình và cộng đồng.

Phật giáo Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đặt nền tảng cho sự phát triển văn hóa tín ngưỡng Phật giáo Việt Nam nói riêng, lịch sử văn hóa tín ngưỡng Việt Nam nói chung. Trong đó, Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương là một tác phẩm của Phật giáo Trúc Lâm trong ứng dụng thực hành nghi lễ tôn giáo thuộc thiền phái Trúc Lâm được Huyền Quang tôn giả tiếp thu tinh hoa kế thừa tôn chỉ định bản, sau đó được nhiều tác giả đời sau lưu truyền, sửa chữa, in ấn. Trong giới tu hành Thiền phái Trúc Lâm, Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương (tên gọi khác là Thích thị Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương) được giới nghiên cứu Phật giáo nhận định là bộ sách tiêu biểu cho hoạt động thực hành tín ngưỡng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Tác phẩm do Đệ Trúc Lâm tam tổ Huyền (1254 - 1334) định bản (thu thập, sửa chữa và biên tập). Tác phẩm sử dụng chữ Hán và có xen chữ Nôm, ghi chép các nghi lễ trong đạo Phật, các bài văn hướng dẫn cách thức thực hành nghi thức hành lễ trong trai đàn, như: trà thang, đề ngạch sớ, đề Kim đồng Ngọc nữ, lễ phát hỏa trong phát tấu, giải oan, phá ngục, Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương được lưu hành rộng rãi trong các chùa Phật ở Việt Nam, thư viện các địa phương, đặc biệt là phổ biến trong tư gia các thầy cúng, thể hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm.

Trong quá trình hình thành và phát triển, Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử đã đóng vai trò quan trọng, đã góp phần lớn trong việc hình thành bản sắc văn hóa dân tộc. Vai trò ấy được thể hiện thông qua tính dân tộc của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử. Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương tác phẩm tiêu biểu thể hiện tinh thần nhập thế, bám sát cuộc sống từ đạo tới đời cùa dòng phái này. Các khoa nghi và thực hành nghi lễ trong tác phẩm đều hướng đến con người, đặt giá trị con người trong một tầm cao mới: Biết quý trọng bản thân ở thời hiện tại, quá khứ và tương lai. Tư tưởng của tác phẩm giúp các nhà tu hành tu tập, tĩnh tâm trước dòng đời vạn biến và xoa dịu nỗi đau tinh thần của con người khi mất đi người thân, hướng con người sống thiện. Tinh thần nhập thế, tích cực tham gia xây dựng xã hội phồn vinh, an ninh và hòa bình của Phật giáo Trúc Lâm không chỉ đóng vai trò quan trọng trong đời sống Phật giáo Việt Nam, mà còn phù hợp với dòng chảy tư tưởng văn hóa chung của nhân loại. Tư tưởng đó đã trở thành phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo Việt Nam hiện nay./.

------------------------------------

(1) Xem: Thích Nữ Trung Tâm: “Nét đặc sắc trong Văn học Phật giáp Việt Nam thời Lý - Trần”, https://tapchinghiencuuphathoc.vn/, truy cập ngày 20-4-2023

(2) Xem: Thích Nữ Trung Tâm: “Nét đặc sắc trong Văn học Phật giáp Việt Nam thời Lý - Trần”, https://tapchinghiencuuphathoc.vn/, truy cập ngày 20-4-2023

(3) Xem: Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000, t. 1, tr. 102