Phát triển ngành logistics trên địa bàn thành phố Hà Nội trong bối cảnh mới
TCCS - Với vị trí trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, có hệ thống giao thông kết nối đồng bộ, thời gian qua, Hà Nội tập trung phát triển ngành logistics và đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, quá trình triển khai gặp hạn chế về chi phí, năng lực cạnh tranh, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng, do đó cần nhiều giải pháp đồng bộ để thúc đẩy ngành logistics của Hà Nội phát triển bền vững.
Thực trạng hoạt động logistics của thành phố Hà Nội thời gian qua
Logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, ngành dịch vụ logistics đang đứng trước cả thách thức và cơ hội lớn. Quyết định số 531/QĐ-TTg, ngày 1-4-2021, của Thủ tướng Chính phủ, về phê duyệt “Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” xác định: Logistics cùng với dịch vụ du lịch; công nghệ thông tin và truyền thông; dịch vụ tài chính ngân hàng là bốn ngành dịch vụ hàng đầu được ưu tiên phát triển đến năm 2050.
Hiện nay, khoảng 40% lưu lượng hàng hóa của các địa phương khác đang luân chuyển qua địa bàn thành phố Hà Nội. Thành phố có 10 khu công nghiệp đã thành lập và đi vào hoạt động, hơn 100 cụm công nghiệp đã và đang hình thành; gần 150 siêu thị, 454 chợ và hơn 10.000 cửa hàng tiện ích đang hàng ngày phục vụ nhu cầu của hàng triệu cư dân đô thị. Theo Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh logistics cấp tỉnh, trong thời gian hơn 1 năm (từ tháng 8-2022 đến tháng 11-2023) của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam và Viện Nghiên cứu Phát triển logistics Việt Nam, Hà Nội giữ vị trí thứ tư trong bảng xếp hạng Chỉ số năng lực cạnh tranh logistics cấp tỉnh (LCI). Để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ vận tải và kho bãi, các doanh nghiệp logistics Hà Nội đã tập trung nguồn lực để khai thác các cơ hội và nhu cầu thị trường. Nhờ đó, doanh thu từ dịch vụ vận tải và kinh doanh kho bãi có chiều hướng tăng theo các năm.
Tính đến năm 2023, thành phố có khoảng 25.000 doanh nghiệp hoạt động logistics với các quy mô, cấp độ, loại hình, ngành, nghề dịch vụ logistics khác nhau,. Trong số các doanh nghiệp hoạt động logistics, có khoảng 400 doanh nghiệp đang sử dụng gần 100ha đất để kinh doanh cho thuê kho, bãi tập kết sản phẩm, hàng hóa, nguyên vật liệu chờ cung ứng, phân phối, tiêu thụ; với các quy mô từ kho, bãi có diện tích nhỏ nhất là 60m2 đến kho, bãi có diện tích lớn nhất là 63.014m2. Một số kho bãi lớn đang được các doanh nghiệp logistics khai thác, vận hành như: Trung tâm Logistics Hateco tại quận Long Biên của Công ty Cổ phần Hateco Logistics, diện tích 12ha; Trung tâm khai thác vận chuyển khu vực phía Bắc tại xã Kim Hoa, huyện Mê Linh, Hà Nội của Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam, diện tích 3,6ha. Bên cạnh đó, trên địa bàn thành phố hiện nay đang từng bước hình thành đầu tư xây dựng mới các kho, bãi quy mô lớn như Cảng cạn ICD Hoài Đức 17,75ha tại huyện Hoài Đức, Cảng cạn ICD Gia Lâm 47,2ha tại huyện Gia Lâm, Trung tâm logistics hạng I 50ha tại huyện Sóc Sơn, Trung tâm logistics hạng II 22ha tại khu đô thị vệ tinh Phú Xuyên.
Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội có 41 kho lạnh của các cơ sở sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản với diện tích 5.330m2. Với sức chứa của kho lạnh là 42.000m3 , có khả năng bảo quản tốt các sản phẩm nông - lâm - thủy sản theo các yêu cầu bảo quản thông thường và trong điều kiện đặc biệt khác. Các kho lạnh trên đều được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, qua đó giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí trong quá trình phân phối và lưu thông hàng hóa, đưa sản phẩm nhanh chóng có mặt trên thị trường. Để phát triển hạ tầng kinh doanh dịch vụ logistics, thành phố Hà Nội đang triển khai giới thiệu địa điểm để thu hút đầu tư trong thời gian tới. Như vậy, Hà Nội đã hình thành mạng lưới hạ tầng logistics, gồm hệ thống cảng cạn, trung tâm logistics, kho bãi, các tuyến đường bộ, đường sắt kết nối liên vùng và quốc tế. Hà Nội có vị trí chiến lược trong chuỗi cung ứng hàng hóa của cả nước và khu vực. Logistics của Hà Nội có quy mô và khả năng đáp ứng ngày càng lớn nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp logistics trên địa bàn thành phố Hà Nội đóng góp quan trọng vào tăng trưởng của Thành phố.
Trong Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, các nội dung về phát triển hạ tầng kinh doanh dịch vụ logistics đã được tích hợp vào quy hoạch. Đây là tiền đề để ngành logistics nâng cao hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng của Thủ đô. Bên cạnh đó, hình thành mạng lưới, hệ thống trung tâm logistics kết nối, gắn bó mật thiết và hỗ trợ giữa các địa phương.
Một số hạn chế và giải pháp nhằm phát triển logistics trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới
Mặc dù đạt được một số kết quả tích cực, ngành logistics Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý: Kinh doanh dịch vụ logistics là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Hiện nay, trong lĩnh vực này mới chỉ được quy định tại Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định số 140/2007/NĐ-CP, ngày 5-9-2007, của Chính phủ, quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Tuy nhiên, các quy định quản lý tại Nghị định số 140/2007/NĐ-CP đến nay không còn phù hợp; quy định về điều kiện kinh doanh còn sơ sài, chưa rõ thẩm quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động logistics ở cấp chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, chưa có giải pháp đột phá cho phát triển logistics từ chính sách đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng logistics.
Thứ hai, về quy mô, sức cạnh tranh và khả năng cung ứng: Đa số doanh nghiệp logistics có quy mô nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp. Phần lớn, các doanh nghiệp logistics của Hà Nội chỉ cung cấp dịch vụ cơ bản, cạnh tranh về giá; các vấn đề về nhân sự, tổ chức mạng lưới, hệ thống thông tin, tính liên kết chưa đồng bộ; việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số còn hạn chế. Trên địa bàn thành phố Hà Nội có khoảng 25 nghìn doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics, tuy nhiên mới chỉ đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu hàng hóa; 18% tổng lượng hàng hóa xuất, nhập khẩu do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện.
Thứ ba, về kết cấu hạ tầng: Mặc dù đã đầu tư, đẩy nhanh tiến độ các dự án xây mới và nâng cấp kết cấu hạ tầng, tuy nhiên đây vẫn là hạn chế lớn trong hoạt động logistics Hà Nội. Hệ thống kho hàng, bến bãi logistics tại Hà Nội còn nhỏ lẻ, thiếu nhiều loại hình kho lưu trữ hàng hóa. Số cảng cạn ít và chủ yếu sử dụng đường bộ, chưa kết nối với đường sắt, đường thủy… Thành phố có các cảng đường sông nhưng chưa phát huy được thế mạnh. Hệ thống đường sắt chưa được nâng cấp, thiếu thuận tiện. Vận tải hàng hóa đường bộ chiếm thị phần lớn trong vận tải hàng hóa, song chi phí vận tải đường bộ còn ở mức cao, thêm nữa là tình trạng ùn tắc giao thông làm giảm sức cạnh tranh của logistics Hà Nội
- Thứ tư, về nguồn nhân lực: Theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tính đến hết năm 2023, nhu cầu nhân lực ngành logistics tăng trung bình 15% mỗi năm. Chỉ có 35% số lao động trong ngành logistics được đào tạo chuyên môn. 65% doanh nghiệp logistics gặp khó khăn trong tuyển dụng nhân sự có kỹ năng phù hợp. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngành logistics đối mặt với việc thiếu hụt nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng về công nghệ thông tin, ngoại ngữ. Việc ứng dụng và sử dụng các phần mềm logistics, kiến thức và kỹ năng về quản trị thu mua, quản trị vận tải, kho hàng... chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
Thứ năm, về liên kết, hợp tác và huy động các nguồn lực: Thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp dịch vụ logistics với nhau và với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chưa phát huy được hiệu quả liên kết, phối hợp để cùng thu hút đầu tư, phát triển dịch vụ logistics liên địa phương, liên vùng dựa trên các đặc điểm và thế mạnh để cùng tạo thành các chuỗi logistics tối ưu và hiệu quả. Việc huy động các nguồn lực xã hội để đầu tư hạ tầng giao thông, hạ tầng logistics còn khó khăn, chủ yếu phụ thuộc vốn ngân sách nhà nước.
Thứ sáu, phát triển bền vững: Logistics xanh và bền vững đang trở thành vấn đề quan trọng của các quốc gia trên thế giới. Logistics xanh đang ngày được quam tâm, nhằm giảm thiểu các tác động về sinh thái của hoạt động logistics. Việc ứng dụng logistics xanh sẽ giúp các doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí về môi trường, nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng trưởng bền vững. Việt Nam đã cam kết giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Chính vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, nếu các doanh nghiệp không thực hiện nhanh và ngay các tiêu chí xanh thì trong sẽ gặp nhiều khó khăn khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trong nước và nước ngoài.
Giai đoạn 2026 - 2030, thành phố Hà Nội đặt mục tiêu tăng trưởng GRDP từ 8% trở lên và tăng trưởng hai con số. Để đạt mục tiêu trên, thành phố cần thúc đẩy một số ngành, lĩnh vực có triển vọng tăng trưởng cao, trong đó có logistic, do đó cần chú trọng thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ logistics phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của Thủ đô trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Nghiên cứu sửa đổi, cập nhật những quy định liên quan đến đầu tư phát triển logistics linh hoạt và phù hợp hơn. Ưu tiên bố trí ngân sách hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật cho phát triển dịch vụ logistics, xã hội hóa nguồn lực cho phát triển dịch vụ logistics, góp phần nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics.
Hỗ trợ xây dựng những doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực logistics. Đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài và xuất khẩu dịch vụ logistics. Rà soát các cam kết quốc tế về dịch vụ logistics, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng, xử lý tranh chấp liên quan đến hoạt động logistics...
Hỗ trợ các doanh nghiệp dịch vụ logistics, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn vốn, phát triển thị trường, đào tạo, tiếp cận thông tin. Thường xuyên đối thoại, tháo gỡ khó khăn kịp thời cho các doanh nghiệp logistics. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo thị trường trong nước và quốc tế để cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Tổ chức các đoàn khảo sát, diễn dàn, hội thảo để tạo điểm hẹn kết nối các doanh nghiệp logistics trong và ngoài nước, nhà đầu tư và các bên liên quan gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, tìm kiếm cơ hội hợp tác trong lĩnh vực này. Nghiên cứu cơ chế, chính sách để phát triển ngành logistics gắn với xu thế phát triển xanh, bền vững, ứng dụng công nghệ cao để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hai là, tập trung phát triển hạ tầng giao thông, hệ thống giao thông thông minh, các nền tảng kết nối giữa các chủ hàng, nhà giao vận và khách hàng. Bảo đảm tính đồng bộ của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải. Tiếp tục xây dựng các trung tâm logistics có quy mô phù hợp trên các tuyến đường vành đai, kết nối các đầu mối gom hàng, các kho tập kết, phân phối hàng hóa tại các khu vực tập trung sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, khu công nghiệp; phát triển hệ thống kho bãi, kho hàng chuyên dụng.
Ba là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính, giải quyết các thủ tục hành chính nhanh chóng, thuận tiện cho các hoạt động hỗ trợ logistics. Khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ logistics lớn trên thế giới và các doanh nghiệp logistics trong nước đặt trụ sở, chi nhánh và văn phòng giao dịch trên địa bàn thành phố Hà Nội, từng bước xây dựng Thủ đô thành Trung tâm điều hành logistics của khu vực miền Bắc. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các địa phương lân cận trong vùng Thủ đô, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tăng cường huy động các nguồn lực cho phát triển logistics theo hướng xã hội hóa.
Bốn là, khuyến khích các doanh nghiệp logistics trên địa bàn đẩy mạnh cung cấp dịch vụ logistics trọn gói 3PL, 4PL; triển khai các dịch vụ logistics trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và giao dịch điện tử để hướng đến cung cấp dịch vụ logistics trọn gói 5PL. Ứng dụng khoa học - công nghệ trong quản lý, vận hành chuỗi cung ứng và dịch vụ logistics chuyên nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm chi phí.../.
Hà Nội phát huy tinh thần tự soi, tự sửa của cán bộ, đảng viên  (11/11/2025)
“Giữ việc” hay “Giữ ghế”  (10/11/2025)
Dấu ấn nổi bật trong cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số ở thành phố Hà Nội  (08/11/2025)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm