Đại đoàn kết toàn dân tộc - Sức mạnh nền tảng bảo vệ an ninh tư tưởng chính trị ở Việt Nam hiện nay
TCCS - Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh to lớn, là “bức tường thành” kiên cố, là “lá chắn thép” bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc. Khi lòng dân thuận, sức dân mạnh thì không một thế lực thù địch nào có thể xuyên tạc, kích động, gây chia rẽ Đảng với nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc chính là nền tảng vững chắc để bảo vệ an ninh tư tưởng chính trị ở Việt Nam.
Quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc và an ninh tư tưởng chính trị
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết toàn dân tộc luôn giữ vai trò quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành nguồn sức mạnh to lớn, giúp đất nước vượt qua muôn vàn thử thách, giữ vững độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và từng bước vươn lên phát triển bền vững. Đảng ta luôn nhất quán xác định phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó xuyên suốt toàn bộ quá trình lãnh đạo của Đảng trong 95 năm qua, thể hiện cả trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi tình hình thế giới và khu vực càng có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thúc đẩy các hoạt động chống phá trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, thì nhiệm vụ bảo vệ an ninh tư tưởng chính trị càng trở nên cấp thiết. Phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là nhiệm vụ xây dựng đất nước, mà còn là nhân tố nền tảng tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, trước hết là an ninh tư tưởng chính trị.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành công của cách mạng. Người đã nhận thức đúng đắn, toàn diện, sâu sắc vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân để đi tới khẳng định: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”(1). Đại đoàn kết toàn dân tộc là sự tập hợp và kết nối tất cả các lực lượng, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thành phần xã hội, cùng hướng về một mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta, đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nguyên tắc cơ bản, nhất quán và xuyên suốt.
An ninh tư tưởng chính trị là sự ổn định, thống nhất và vững chắc trong hệ tư tưởng của hệ thống chính trị, nhất là trong nhân dân. Đồng thời là một bộ phận quan trọng cấu thành an ninh chính trị quốc gia, biểu hiện ở sự vững chắc, ổn định và thống nhất về hệ tư tưởng, niềm tin chính trị trong xã hội. An ninh tư tưởng chính trị được giữ vững khi đa số quần chúng nhân dân tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Biểu hiện của an ninh tư tưởng chính trị trong đời sống xã hội được khái quát thành ba nội dung, đó là: 1- Niềm tin vào Đảng, Nhà nước của nhân dân - đây là biểu hiện cốt lõi, thể hiện mức độ gắn bó giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Khi người dân có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chính sách, pháp luật và định hướng phát triển đất nước, thì đó chính là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự ổn định về chính trị - xã hội và củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”. 2- Nhận thức đúng đắn của người dân về con đường phát triển của Việt Nam: khi nhân dân hiểu rằng con đường phát triển đất nước là phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa, và lợi ích dân tộc thì họ sẽ kiên định với lựa chọn ấy, không dao động trước những luận điệu xuyên tạc. 3- Sự ổn định trong tư tưởng, không bị dao động, lôi kéo. Đây là biểu hiện quan trọng cho thấy nền tảng tư tưởng trong xã hội vững vàng, có sức đề kháng trước âm mưu “diễn biến hòa bình” và các hình thức “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Sự đồng thuận về hệ tư tưởng, niềm tin chính trị trong toàn xã hội không thể hình thành bằng mệnh lệnh hành chính hay ép buộc, mà phải được xây dựng trên nền tảng của sự thống nhất giữa ý Đảng - lòng dân, sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Khi lòng dân yên, ý dân thuận thì trận địa tư tưởng chính trị sẽ được củng cố từ gốc rễ. Muốn giữ được an ninh tư tưởng bền vững, thì trước hết phải “giữ được lòng dân”, làm cho dân hiểu, dân tin, dân ủng hộ.
Lòng dân là “gốc” của an ninh tư tưởng chính trị. Khi nhân dân đồng thuận, tin tưởng, gắn bó với Đảng thì các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch không thể gây chia rẽ. Sự ổn định trong lòng dân chính là “pháo đài” vững chắc ngăn chặn mọi âm mưu gây rối loạn tư tưởng, chính trị. Đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là nền tảng phát triển đất nước, mà còn là lực lượng then chốt để bảo vệ sự thống nhất về nhận thức chính trị - tư tưởng trong toàn xã hội. Lòng dân cũng chính là thước đo hiệu quả của công tác tư tưởng, đại đoàn kết tạo sự đồng thuận xã hội, từ đó giữ vững trận địa tư tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đoàn kết là sức mạnh, là cội nguồn của thành công: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”(2). Do vậy, xây dựng “thế trận lòng dân” trong bảo vệ an ninh quốc gia là tất yếu khách quan; được thể hiện cả trên mặt “xây” cũng như mặt “chống”, ở việc thực hiện chủ trương “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”(3). Đại đoàn kết toàn dân tộc và an ninh tư tưởng chính trị là hai lĩnh vực vừa độc lập, vừa gắn bó hữu cơ, tác động qua lại sâu sắc trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở nền tảng để bảo vệ an ninh tư tưởng chính trị; ngược lại, sự ổn định và vững mạnh về tư tưởng chính trị là điều kiện cần thiết để củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bảo vệ an ninh tư tưởng chính trị ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Trong lịch sử, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, tổ chức nhiều hình thức tập hợp nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự thành các phong trào cách mạng, thi đua yêu nước, mang lại sức mạnh to lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước, tiêu biểu trong đó là Cuộc vận động “Ba không”, “Ngũ liên gia bảo”... trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp; phong trào “Bảo mật phòng gian”, “Bảo vệ trị an”, “Phòng gian, phòng hỏa, phòng tai nạn”... trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước; sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là “Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc” và nay là “Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
Bước vào thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục chú trọng công tác vận động và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, coi đây là công tác trọng tâm có tính chiến lược của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, công cuộc bảo vệ an ninh, trật tự nói riêng. Ngày 13-6-2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 521/QĐ-TT, ngày 19-8 hằng năm là Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đây là minh chứng rõ nét việc Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới. Qua việc tổ chức Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là dịp biểu dương sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đảng ta chỉ rõ: Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự tin tưởng của đại đa số nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện qua tinh thần yêu nước, đồng lòng ủng hộ của người dân trong các vấn đề lớn của quốc gia, như đại dịch COVD, bảo vệ chủ quyền, phát triển kinh tế - xã hội… Thực tiễn cho thấy, trong bối cảnh đối mặt với nhiều khó khăn, từ dịch bệnh COVID-19, thiên tai, nhân dân Việt Nam luôn một lòng gắn bó với Đảng, Nhà nước. Tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng, và trách nhiệm xã hội được thể hiện rõ trong các phong trào như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Dân vận khéo”, và gần đây là mô hình “Chuyển đổi số cộng đồng”. Các phong trào không chỉ góp phần phát triển kinh tế - xã hội mà còn lan tỏa tinh thần yêu nước, củng cố niềm tin vào Đảng, tạo nên sự đồng thuận về tư tưởng, hành động trong toàn xã hội.
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, hiện nay khối đại đoàn kết toàn dân tộc và nền tảng an ninh tư tưởng chính trị đang đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Trước hết, một số cán bộ, đảng viên thiếu tu dương, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào tổ chức đảng và bộ máy nhà nước. Khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền ngày càng gia tăng, gia tăng bất bình đẳng xã hội, gây nguy cơ chia rẽ trong cộng đồng dân cư và làm suy yếu sự đồng thuận xã hội… tiềm ẩn nguy cơ bị các thế lực thù địch lợi dụng để kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, sự bùng nổ của thông tin trên không gian mạng, với sự lan truyền nhanh chóng của các luồng thông tin xấu độc, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đang tác động tiêu cực đến nhận thức, tư tưởng, niềm tin của nhân dân, nhất là đối tượng thanh thiếu niên. Những thách thức nêu trên đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ, lâu dài và kiên quyết để bảo vệ sự thống nhất trong tư tưởng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong tình hình mới.
Phát huy nội lực bảo vệ an ninh tư tưởng chính trị
Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa,... “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(5). Đó là quan điểm nhất quán, được Đảng ta khẳng định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Bởi vậy, cần được quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo trong giai đoạn cách mạng mới.
Thứ nhất, củng cố lòng dân, bảo vệ vững chắc nền tảng của an ninh tư tưởng. Cần thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, bảo đảm người dân được tham gia vào quá trình ra quyết định, giám sát và phản biện chính sách. Phát huy cao hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực một cách triệt để. Coi trọng công tác dân vận, lắng nghe dân nói, thấu hiểu dân nghĩ, đồng hành cùng dân hành động. Tăng cường công tác giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ thông qua các giải pháp, chương trình cụ thể, thiết thực gắn với việc làm hằng ngày của mỗi người dân.
Thứ hai, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bảo vệ an ninh tư tưởng chính trị phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nêu cao vai trò nêu gương, bản lĩnh chính trị và tinh thần trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong củng cố, lan tỏa tinh thần đoàn kết toàn dân tộc gắn với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sự thống nhất trong Đảng là điều kiện tiên quyết để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo, là trung tâm đoàn kết của toàn xã hội. Bên cạnh đó, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần thực hiện nghiêm kỷ cương, đề cao đạo đức cách mạng, tôn trọng và thực hành dân chủ gắn với giữ gìn kỷ luật, trật tự xã hội.
Thứ ba, chuyển hóa lòng dân thành sức dân. Lòng dân cần được chuyển hóa thành sức dân, sự tham gia tự giác, tích cực của người dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh tư tưởng. Muốn vậy, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, trách nhiệm xã hội, nhất là trong giới trẻ. Tạo cơ hội để người dân tham gia giám sát, phản biện xã hội - tăng tính minh bạch, đồng thời củng cố sự đồng thuận xã hội. Tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đặc biệt ở cấp cơ sở - nơi trực tiếp gắn bó với đời sống người dân.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí - truyền thông và hệ thống giáo dục trong nâng cao “sức đề kháng” tư tưởng của nhân dân. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này, cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí - truyền thông và hệ thống giáo dục. Các tổ chức chính trị - xã hội phát huy vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; thường xuyên tuyên truyền, vận động, giáo dục tư tưởng, chính trị, nâng cao nhận thức cho hội viên, đoàn viên về chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các cơ quan báo chí - truyền thông cần thực hiện tốt chức năng định hướng dư luận xã hội, chủ động phản bác các thông tin xấu độc, xuyên tạc; đồng thời lan tỏa những giá trị tích cực, gương người tốt, việc tốt, khơi dậy niềm tin, niềm tự hào về truyền thống cách mạng, lòng yêu nước và ý chí tự lực, tự cường dân tộc. Hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục tư tưởng, chính trị trong nhà trường cần đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, cho thanh niên, học sinh, sinh viên - tạo lớp người kế tục trung thành, kiên định với con đường cách mạng của dân tộc./.
---------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, t.2, tr. 283
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 120
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 110
(4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 173, 155-156
Nghị quyết số 68-NQ/TW góp phần tháo gỡ “điểm nghẽn” để kinh tế tư nhân bứt phá  (09/06/2025)
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế ở Việt Nam  (08/06/2025)
- Về tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm