Ninh Thuận đổi mới tư duy, tập trung đầu tư để kinh tế biển trở thành động lực cho phát triển
TCCS - Để hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết số 36/NQ-TW, ngày 22-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045”, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Ninh Thuận xác định các hoạt động kinh tế biển là động lực thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển nhanh và bền vững; Vì vậy, trong thời gian tới, Ninh Thuận cần có nhiều giải pháp đồng bộ và triển khai một cách tích cực, hiệu quả trong khai thác tiềm năng, thế mạnh trên lĩnh vực này.
Đổi mới tư duy để khai thác lợi thế và tiềm năng
Với bờ biển dài 105km, Ninh Thuận còn có nhiều vịnh, bãi biển đẹp, điều kiện khí hậu đặc thù về nắng và gió; là cửa ngõ nối vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ với các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung Bộ, nằm ở giao điểm của 3 trục giao thông chiến lược là quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam và quốc lộ 27 đi Tây Nguyên,... Bởi vậy, Ninh Thuận có nhiều tiềm năng lợi thế so sánh cho phát triển du lịch, nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản, năng lượng, cảng biển, công nghiệp ven biển. Đồng thời, Ninh Thuận có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh của khu vực và cả nước trong bảo vệ an ninh quốc gia vùng ven biển, trên biển.
Để khai thác các tiềm năng và lợi thế về kinh tế biển, các nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh qua các nhiệm kỳ đều nhấn mạnh vai trò, vị trí, tầm quan trọng của kinh tế biển. Nhưng đến Đại hội XIII (nhiệm kỳ 2015 - 2020), với tư duy phát triển mới, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhận diện và xác định kinh tế biển là động lực, trọng tâm là phát triển năng lượng sạch, du lịch, nông - lâm - thủy sản gắn với công nghiệp chế biến nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội của tỉnh.
Nhằm cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời để thể hiện rõ nét hơn, khai thác hiệu quả hơn các tiềm năng, lợi thế mới về kinh tế biển, cuối năm 2016, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về phát triển kinh tế biển giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo, với mục tiêu: Ninh Thuận phấn đấu đến năm 2020 trở thành tỉnh có kinh tế biển phát triển bền vững, đồng bộ, có năng lực cạnh tranh cao, là trung tâm năng lượng sạch, là khu vực trọng điểm du lịch quốc gia và là trung tâm sản xuất giống thủy sản của cả nước. Đặc biệt, tinh thần Nghị quyết số 36/NQ-TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” sẽ là kim chỉ nam và động lực cho kinh tế biển của địa phương phát triển nhanh và bền vững hơn.
Những thành tựu bước đầu và khó khăn, thách thức
Sau hơn 3 năm thực hiện chủ trương trên, đến nay kinh tế biển của tỉnh đã chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng: Tốc độ tăng trưởng kinh tế biển tăng khá, bình quân giai đoạn 2007 - 2018 đạt 11,2%/năm, góp phần vào tăng trưởng bình quân GRDP chung của tỉnh là 8,2%/năm, nâng thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh năm 2018 đạt 39,7 triệu đồng; tỷ trọng đóng góp kinh tế biển vào GRDP tăng từ 18,7% (năm 2007) lên 25% (năm 2018); kết cấu hạ tầng vùng biển và ven biển được quan tâm đầu tư ngày một hoàn thiện, nhất là kết câu hạ tầng thiết yếu phục vụ khai thác, chế biến, dịch vụ hậu cần nghề cá và hạ tầng giao thông... Sự phát triển của các ngành kinh tế biển đã mang lại hiệu quả kinh tế, tạo diện mạo mới, giải quyết việc làm, từng bước nâng cao đời sống nhân dân vùng ven biển, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển.
Để có những dấu ấn tích cực trên, trước hết phải kể đến sự phát triển kinh tế thủy sản. Với lợi thế là một trong những ngư trường trọng điểm của cả nước, những năm qua tỉnh chú trọng phát triển lĩnh vực này theo hướng bền vững, toàn diện cả về khai thác, nuôi trồng gắn với chế biến; huy động được nhiều nguồn lực đầu tư đóng mới tàu công suất lớn với trang thiết bị hiện đại; số lượng tàu khai thác hải sản xa bờ tăng mạnh cả về số lượng và chất lượng, ngư trường đánh bắt được mở rộng. Đến cuối năm 2018, toàn tỉnh có 2.505 chiếc/415.937 CV, bình quân 166 CV/chiếc, tăng gấp 3 lần; sản lượng khai thác đạt gần 107 ngàn tấn, tăng gấp 2,2 lần và giá trị sản xuất thủy sản đạt trên 6 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2,6 lần so với năm 2007. Hệ thống kết cấu hạ tầng cảng cá và các dịch vụ hậu cần nghề cá được quan tâm đầu tư tương đối đồng bộ; hiện nay tỉnh có 3 cảng cá và 1 bến cá, với quy mô neo đậu 3.200 tàu cá các loại; có 43 tàu, thuyền làm dịch vụ thu mua hải sản trên biển. Chủ chủ trương xây dựng Ninh Thuận thành trung tâm sản xuất tôm giống của cả nước đã đạt kết quả tích cực, bởi năng lực sản xuất tăng nhanh, quy mô sản xuất được mở rộng, với tốc độ sản xuất giống tăng từ 6,1 tỷ con năm 2007 lên 31 tỷ con năm 2018, hằng năm tỉnh cung ứng khoảng 30% sản lượng giống của cả nước.
Lĩnh vực du lịch cũng có bước phát triển đáng kể, đến nay tỉnh đã có 50 dự án, với tổng vốn đăng ký trên 15 nghìn tỷ đồng được cấp quyết định chủ trương đầu tư và đã có 21 dự án hoàn thành đi vào hoạt động, trong đó có một số dự án quy mô lớn, đạt tiêu chuẩn 3 - 5 sao, nhất là dự án khu du lịch sinh thái Nam Núi Chúa (Amanơi) được các tạp chí uy tín trên thế giới bầu chọn là một trong mười resort biển đẹp nhất thế giới, đã góp phần tạo thương hiệu cho du lịch biển Ninh Thuận. Lượng du khách trong và ngoài nước đến địa phương những năm gần đây tăng nhanh, tốc độ tăng bình quân 5 năm gần đây đạt 14,9%; năm 2018 đã thu hút trên 2,1 triệu lượt khách, tăng gấp 5,7 lần so với năm 2007; doanh thu từ hoạt động du lịch tăng từ 220 tỷ đồng năm 2007 lên 1.050 tỷ đồng năm 2018.
Với chủ trương phát triển công nghiệp chế biến làm động lực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đến nay tỉnh cũng đạt được kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tính đến nay, toàn tỉnh có 44 dự án công nghiệp ven biển được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký gần 24 nghìn tỷ đồng, trong đó có 24 dự án hoàn thành đi vào hoạt động, chiếm 54,5%. Tỷ trọng công nghiệp ven biển trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp không ngừng tăng lên, từ 24,2% năm 2007 tăng lên 33,5% năm 2018. Cùng với đó, thực hiện chủ trương xây dựng Ninh Thuận thành trung tâm năng lượng tái tạo, năng lượng sạch của cả nước từng bước được thực hiện và hiện có nhiều tín hiệu khởi sắc mạnh mẽ. Nắm bắt được xu hướng mới của các nhà đầu tư trong và ngoài nước về năng lượng, tỉnh đã chủ động xây dựng và trình phê duyệt quy hoạch phát triển điện lực tỉnh giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2035; quy hoạch phát triển điện mặt trời tại Ninh Thuận giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030, với quy mô 10.476 MW. Đến nay đã có 31 dự án điện mặt trời, với công suất 1.816,79MW và 13 dự án điện gió, với công suất 748,75MW được cấp quyết định chủ trương đầu tư; đến cuối tháng 6-2019 đã 15 dự án hoàn thành hòa điện lưới quốc gia, với tổng công suất đạt 1.089,915MW, đóng góp lớn cho tăng trưởng ngành công nghiệp năm 2019 và những năm tới. Hiện nay, tỉnh đang trình phê duyệt bổ sung dự án Trung tâm Điện lực Cà Ná vào quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 nhằm mục tiêu xây dựng Trung tâm Điện lực Cà Ná gắn với phát triển cảng biển nước sâu và khu công nghiệp Cà Ná, với quy mô công suất dự án Trung tâm Điện lực lên đến 6.000MW.
Về phát triển kết cấu hạ tầng vùng ven biển, đến nay Ninh Thuận có 4 khu công nghiệp và 7 cụm công nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, với tổng diện tích 1.909ha; hiện có 2 khu công nghiệp và 1 cụm công nghiệp hoàn thành đi vào hoạt động, thu hút được 31 dự án đầu tư, với tổng số vốn 2.268 tỷ đồng. Cùng với đó, tỉnh ưu tiên đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; nhiều công trình quy mô lớn đã được đầu tư hoàn thành, góp phần thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế biển, trọng tâm là đầu tư tuyến đường ven biển dài 105,8km. Đây là tuyến đường có ý nghĩa quan trọng, tạo động lực thúc đẩy phát triển các khu vực hành lang kinh tế phía Đông và tạo điều kiện để sắp xếp lại dân cư vùng ven biển, góp phần phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai và tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Hiện Ninh Thuận đang tập trung hoàn tất thủ tục để triển khai đầu tư dự án cảng biển nước sâu Cà Ná với quy mô tiếp nhận tàu đến 300.000DWT, trước mắt, triển khai giai đoạn I với quy mô gồm 2 bến tàu công suất 70.000 - 100.000DWT và một bến tàu 20.000DWT; khi dự án hoàn thành sẽ đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu, vận chuyển hàng hóa của tỉnh và khu vực Nam Tây Nguyên, góp phần tạo đột phá cho phát triển kinh tế biển của tỉnh và khu vực trong thời gian tới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được bước đầu, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Ninh Thuận nhận thấy, kinh tế biển của địa phương tuy đã có những chuyển biến tích cực, quan trọng, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, chưa phát huy được vai trò là động lực trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Điểm đáng lưu ý là, nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của biển và phát triển kinh tế biển của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có mặt còn hạn chế. Một số vấn đề cần sớm tháo gỡ đó là, hệ thống kết cấu hạ tầng vùng biển và các ngành kinh tế biển chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu tính đồng bộ và tính kết nối. Lĩnh vực thủy sản phát triển chưa bền vững, hiệu quả nghề khai thác còn thấp; tình trạng ô nhiễm ở một số vùng nuôi trồng thủy sản tập trung chưa được khắc phục hiệu quả; công tác ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất thủy sản chưa nhiều, tính bền vững chưa cao; chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế biển còn thiếu và yếu. Việc đầu tư kết cấu hạ tầng đấu nối để giải phóng công suất cho các dự án điện gió, điện mặt trời còn khó khăn, vướng mắc.
Quyết tâm đột phá để trở thành tỉnh giàu về biển
Để phát triển bền vững kinh tế biển trong thời gian tới, tỉnh sẽ tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả tinh thần Nghị quyết số 36-NQ/TW với mục tiêu đến năm 2030 Ninh Thuận trở thành một trong những địa phương mạnh về biển; tốc độ tăng trưởng kinh tế biển của tỉnh tăng bình quân 14% - 15%/năm, chiếm 45% - 46% tổng sản phẩm nội tỉnh; cơ bản đạt các tiêu chí về phát triển bền vững, từng bước hình thành văn hóa sinh thái biển, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng... Vì vậy, tỉnh sẽ triển khai quyết liệt đồng bộ các giải pháp đột phá đối với ngành kinh tế biển.
Trước hết, đẩy mạnh hiện thực hóa chủ trương phát triển Ninh Thuận trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của cả nước; trọng tâm là phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch theo hướng công nghệ mới gắn với bảo vệ môi trường sinh thái; từng bước phát triển năng lượng sạch trên vùng biển ven bờ. Chủ động đề xuất, kiến nghị các bộ, ngành Trung ương có giải pháp đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đường dây và trạm biến áp 500KV và 220KV trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 để giải phóng công suất các dự án điện gió, điện mặt trời.
Hai là, chú trọng phát triển du lịch, dịch vụ gắn với hình thành đô thị ven biển. Theo đó, ưu tiên thu hút đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật các khu du lịch trọng điểm và các vùng có tiềm năng phát triển du lịch biển để sớm hình thành các khu du lịch có đẳng cấp cao; khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Xây dựng, phát triển, đa dạng hóa các sản phẩm, chuỗi sản phẩm, thương hiệu du lịch biển bền vững gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, phát huy giá trị di sản thiên nhiên, văn hoá, lịch sử đặc sắc của tỉnh, kết nối với các tuyến du lịch quốc gia để Ninh Thuận trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong nước và quốc tế.
Ba là, đối với ngành công nghiệp ven biển, tỉnh sẽ đẩy nhanh triển khai các dự án khu vực công nghiệp phía Nam của tỉnh, trọng tâm là khu công nghiệp Cà Ná gắn với Tổ hợp điện khí, khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) Cà Ná. Ưu tiên thu hút các dự án công nghiệp quy mô lớn, công nghiệp công nghệ cao thân thiện với môi trường đi đôi với phát triển hợp lý các ngành sửa chữa và đóng tàu, năng lượng, cơ khí chế tạo, công nghiệp chế biến thủy sản, công nghiệp sản xuất muối và sản phẩm sau muối, công nghiệp hỗ trợ.
Bốn là, tiếp tục phát triển Ninh Thuận trở thành trung tâm sản xuất tôm giống có chất lượng cao của cả nước. Thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng, khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ, tái sinh nguồn lợi hải sản. Đẩy mạnh tổ chức lại nghề khai thác hải sản bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế gắn với thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển thủy sản; chú trọng phát triển khai thác, đánh bắt hải sản xa bờ gắn với tiếp tục đổi mới cơ cấu thuyền, nghề và phát triển các mô hình dịch vụ trên biển. Tăng cường liên kết sản xuất theo hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; tham gia khai thác hải sản xa bờ gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển. Đầu tư nâng cấp các cảng cá, bến cá, khu neo đậu tàu, thuyền, tổ chức tốt dịch vụ hậu cần nghề cá. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong nuôi trồng, khai thác, bảo quản, chế biến hải sản...
Năm là, để phát triển kinh tế hàng hải, tỉnh sẽ đẩy nhanh hoàn tất các thủ tục triển khai dự án cảng tổng hợp Cà Ná, nâng cấp cảng Ninh Chữ thành khu cảng tổng hợp, tạo điều kiện thu hút các dự án công nghiệp có nhu cầu vận tải đường biển. Từng bước hình thành, phát triển các loại hình dịch vụ lô-gi-stíc, như vận tải biển, hệ thống các kho tàng, bến bãi, cung ứng các dịch vụ kỹ thuật bảo dưỡng, bảo hành và cung ứng vật tư kỹ thuật phục vụ vận tải biển; xây dựng hoàn thiện các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông các cảng biển với các tuyến đường quốc lộ 1A, quốc lộ 27, đường cao tốc, đường sắt Bắc - Nam.
Sáu là, thực hiện việc khai thác trên cơ sở bảo đảm về môi trường, những khoáng sản chưa thực sự có nhu cầu cấp bách hoặc chưa bảo đảm các điều kiện khai thác thì đưa vào dự trữ. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thăm dò, khảo sát, đánh giá tiềm năng các tài nguyên, khoáng sản biển khác, khoáng sản biển sâu, đặc biệt là các khoáng sản có trữ lượng lớn, giá trị cao, có ý nghĩa chiến lược. Nâng cao hiệu quả khai thác các tài nguyên, khoáng sản biển gắn với chế biến sâu; kết hợp hài hòa giữa khai thác, chế biến với bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học biển./.
Giải pháp nâng cao sự hài lòng của người dân về cải cách hành chính tại Thành phố Hồ Chí Minh  (29/12/2019)
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân kế hoạch 2019  (29/12/2019)
Trà Vinh phát triển kinh tế biển trước thách thức biến đổi khí hậu  (28/12/2019)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển