TCCSĐT - Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại, quyết định trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tầm vóc lịch sử như Đại hội thành lập Đảng. Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã trải qua mười hai kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng

Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp trong cả nước, đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930- 1931). Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương. Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội lần thứ nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đánh dấu sự khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước; thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng


Dưới sự lãnh đạo của đảng nhân dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng bất chấp nguyện vọng và mong muốn hòa bình và độc lập của nhân dân ta, thực dân Pháp ráo riết gây hấn, phá hoại với dã tâm cướp nước ta một lần nữa. Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên với quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Để tiếp tục phát triển đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Trung ương Đảng đã quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến 19-02-1951. Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên. Đại hội đã nhất trí cao với đường lối kháng chiến trong Báo cáo chính trị và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị, đồng chí Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch Đảng. Đồng chí Trường Chinh là Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng. Đường lối do Đại hội đề ra đã đáp ứng yêu cầu của kháng chiến và yêu cầu lâu dài của cách mạng, thực sự là những đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng nước ta. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề vững chắc để tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Đại hội Đại biểu lần thứ III của Đảng

Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm là đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Đảng ta đã xác định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Đảng ta quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III họp tại thủ đô Hà Nội, từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 50.000 đảng viên trong cả nước dự Đại hội. Trong lời khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Đại hội lần này là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà".

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 47 uỷ viên chính thức và 31 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đường lối cách mạng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đề ra đã làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến tới thống nhất nước nhà, vì độc lập, tự do của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, Trung ương Đảng quyết định tổ chức Đại hội Đảng lần thứ IV.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV tại thủ đô Hà Nội từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, tham dự đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt hơn 1,55 triệu đảng viên trong cả nước dự đại hội. Đại hội có nhiệm vụ “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đề ra đường lối đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị; Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1976-1980); Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng. Đại hội đã quyết định đổi tên Đảng Lao Động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã quyết định đặt lại chức danh Tổng Bí thư thay chức danh Bí thư thứ nhất. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và mở đầu cho thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nội dung của Đại hội đã đánh dấu một bước phát triển của Đảng ta trong việc tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân đã lựa chọn.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng

Đại hội tiến hành từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982, tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 1.033 đại biểu đại diện cho 1.727.000 đảng viên trong cả nước. Đại hội khẳng định: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau. Xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước lớn mạnh về mọi mặt thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại có tăng cường phòng thủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, tập hợp ý kiến của toàn Đảng đề ra nhiệm vụ, phương hướng... nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh "Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân". Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 uỷ viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị, bầu Ban Bí thư và Ủy ban kiểm tra Trung ương. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng


Đại hội lần thứ VI của Đảng được tiến hành tại Hà Nội (từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986), tham dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại Đại hội VI của Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để, mở ra bước ngoặt, của thời kỳ mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và khẳng định nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII


Đại hội diễn ra từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội với sự tham dự của 1.176 đại biểu, thay mặt cho hơn 2.155.000 đảng viên trong cả nước. Với nhiệm vụ "Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới", Đại hội VII là Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết; là Đại hội lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với 6 đặc trưng và 7 phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.

Đại hội VII có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ quyết định những nhiệm vụ chính trị nặng nề trước mắt, mà cả con đường, bước đi của cách mạng nước ta trong những thập niên tiếp theo. Đó là quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 146 ủy viên. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên, (Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa VII tháng 11-1993 đã bầu bổ sung thêm 04 ủy viên Bộ Chính trị). Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII

Đại hội diễn ra từ ngày 28-6 đến ngày 01-7-1996 tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.198 đại biểu đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong cả nước. Đại hội khẳng định: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới, đại hội rút ra 6 bài học chủ yếu. Nhiệm vụ của đại hội là tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đã đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta; tiếp tục đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 170 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư (sau đó, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4 khóa VIII - tháng 12-1997, đồng chí Lê Khả Phiêu đã được bầu làm Tổng Bí thư). Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta. Đại hội khẳng định tiếp tục sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX

Đại hội họp tại Hà Nội từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, với sự tham gia của 1.168 đại biểu, đại diện cho 2.479.719 đảng viên trong toàn Đảng. Đại hội IX của Đảng đã tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, đề ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Đại hội đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đại hội đã thông qua Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX gồm 150 ủy viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội IX của Đảng đã mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thời kỷ phát triển mới, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng

Đại hội diễn ra từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Chủ đề của Đại hội là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".

Đại hội X của Đảng có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001-2005), chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới; từ đó tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới (2006-2010); phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng; bổ sung sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng… Đồng chí Nông Đức Mạnh được Đại hội bầu lại làm Tổng Bí thư.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI

Đại hội lần thứ XI của Đảng họp từ ngày 12 đến ngày 19-01-2011, tại Thủ đô Hà Nội. Chủ đề của Đại hội là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Tham dự Đại hội XI có 1377 đại biểu, thay mặt cho hơn 3,6 triệu đảng viên trong cả nước.

Đại hội lần thứ XI của Đảng có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê bình nghiêm túc, để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006-2010), tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã thảo luận và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm (2011-2015); Báo cáo chính trị; Báo cáo một số vấn đề về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 175 đồng chí Ủy viên chính thức và 25 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất (khóa XI) đã bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được Đại hội bầu giữ chức Tổng Bí thư. Phát biểu bế mạc Đại hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Thành công của Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng tạo nên sức mạnh cổ vũ to lớn toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta vượt lên mọi khó khăn, thách thức, tranh thủ cơ hội mới, phấn đấu vì mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, diễn ra từ ngày 20 đến 28-01-2016 tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.510 đại biểu đại diện cho hơn 4,5 triệu đảng viên trong cả nước, bao gồm 197 đại biểu chính thức là các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, trong đó 173 ủy viên chính thức và 24 ủy viên dự khuyết; 1.300 đại biểu là các đồng chí được bầu từ đảng bộ các cơ sở; 13 đồng chí là đại biểu chỉ định; 194 đồng chí là đại biểu nữ... Đại biểu cao tuổi nhất Đại hội (trên 70 tuổi) có 2 đại biểu; đại biểu trẻ tuổi nhất (dưới 30 tuổi) 2 đại biểu. Ngoài các đại biểu chính thức, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng mời các đồng chí nguyên Ủy viên Bộ chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương từ khóa I đến khóa VI và một số khách mời khác tới dự Đại hội.

Chủ đề của Đại hội là "Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Đại hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện quan trọng: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI; Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XI; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2020; Báo cáo tổng kết thi hành điều lệ Đảng và Báo cáo việc thực hiện nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Đây là một cột mốc lịch sử quan trọng trong tiến trình đổi mới toàn diện và đồng bộ được tiến hành từ năm 1986.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII gồm 180 đồng chí ủy viên chính thức và 20 đồng chí ủy viên dự khuyết; bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và Quy chế bầu cử tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tín nhiệm bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Đại hội XII của Đảng thành công đúng dịp kỷ niệm 86 năm Ngày thành lập Đảng là niềm tự hào, niềm vui lớn; và một mùa Xuân mới đang về mang theo những điều tốt lành cho cả dân tộc. Thành công lớn của Đại hội XII cũng chính là nhờ thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; là kết quả của việc phát huy cao độ tinh thần dân chủ, đoàn kết, kỷ cương, trí tuệ, đổi mới trong quá trình chuẩn bị và tổ chức Đại hội./.