Quan hệ Việt Nam - Anh: đối tác chiến lược vì sự phát triển
TCCS - Năm 2018 là năm có ý nghĩa đặc biệt trong quan hệ giữa Việt Nam và Anh khi hai nước kỷ niệm tròn 45 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 11-9-1973 - 11-9-2018) và 8 năm thiết lập quan hệ “Đối tác chiến lược” (tháng 10-2010). Trải qua chiều dài lịch sử, đặc biệt kể từ khi hai nước quyết định nâng quan hệ lên “Đối tác chiến lược”, quan hệ Việt Nam - Anh đã có những bước phát triển mạnh mẽ.
Tăng cường sự hiểu biết và tin cậy
Vương quốc Anh là một trong những nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam vẫn đang tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước chỉ thực sự khởi sắc kể từ sau chuyến thăm đầu tiên tới Anh của Thủ tướng Võ Văn Kiệt (năm 1993) và chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam của Ngoại trưởng Anh Đ. Hớt (D. Hurd, năm 1994). Đây là hai chuyến thăm được đánh giá mang tính “mở đường”, tạo tiền đề thúc đẩy các hoạt động trao đổi đoàn cấp cao, đoàn ngoại giao, cũng như các hoạt động hợp tác, giao lưu song phương trong những năm tiếp theo giữa hai nước.
Sau các chuyến thăm chính thức quan trọng của Chủ tịch nước Trần Đức Lương (tháng 5-2004) và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (tháng 3-2005) tới Anh, đầu năm 2007, Thủ tướng Anh Tô-ni Ble (Tony Blair) đã lần đầu tiên cử Đặc phái viên Thủ tướng, Thượng Nghị sĩ S. Pao-oen (Charles Powell) sang Việt Nam trao thư của Thủ tướng Anh cho Thủ tướng Việt Nam, thể hiện mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ hai nước.
Quan hệ Việt Nam - Anh không ngừng được thúc đẩy khi hai nước ký Tuyên bố chung thiết lập khuôn khổ “Quan hệ đối tác vì sự phát triển” nhân chuyến thăm chính thức tới Anh của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng theo lời mời của Thủ tướng Anh G. Brao (Gordon Brown) nhân dịp hai nước kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (năm 2008). Đây được xem là một bước phát triển mới trong quan hệ giữa hai nước khi hợp tác song phương không chỉ bó hẹp trong vấn đề hồi hương của người Việt Nam, mà đã được rộng mở sang năm lĩnh vực: chính trị - ngoại giao, thương mại - đầu tư, hợp tác phát triển, giáo dục - đào tạo, di cư và chống tội phạm có tổ chức. Lãnh đạo cấp cao của hai nước đã khẳng định quyết tâm chung đưa quan hệ Việt Nam - Anh đi vào chiều sâu, hiệu quả và ổn định.
Năm 2010 mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Anh khi Anh trở thành đối tác chiến lược thứ bảy của Việt Nam(1) trong các lĩnh vực then chốt là chính trị - ngoại giao, các vấn đề toàn cầu và khu vực, thương mại - đầu tư, hợp tác phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giáo dục - đào tạo, quốc phòng - an ninh và giao lưu nhân dân, sau khi Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Gia Khiêm và Ngoại trưởng Anh U. Ha-gơ (W. Hague) ký Tuyên bố chung chính thức nâng cấp quan hệ hai nước thành “Đối tác chiến lược”. Không chỉ mở rộng hợp tác từ năm lên bảy lĩnh vực, mà trong mỗi lĩnh vực, hai bên đều có sự cụ thể hóa cả về nội hàm lẫn hình thức hợp tác. Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao, hai bên quyết tâm nâng tầm quan hệ cũng như tăng cường tin cậy chính trị, nhấn mạnh việc thiết lập “kênh trao đổi trực tiếp cấp cao trên các vấn đề quan trọng” và cơ chế đối thoại chiến lược cấp thứ trưởng ngoại giao được tổ chức thường niên, luân phiên tại mỗi nước.
Kể từ đó đến nay, niềm tin chính trị giữa hai nước không ngừng được củng cố thông qua các cuộc gặp cấp cao. Chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Anh vào tháng 01-2013 theo lời mời của Thủ tướng Anh Đ. Ca-me-rôn (David Cameron) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi diễn ra đúng vào dịp hai nước kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và trùng với sự kiện 100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu đặt chân tới nước Anh (năm 1913). Chuyến thăm khẳng định tầm quan trọng của quan hệ Việt Nam - Anh cả ở cấp độ song phương và khu vực. Diễn ra hai năm sau chuyến thăm tới Anh của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Anh Đ. Ca-me-rôn (tháng 7-2015), tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Anh, cũng như thể hiện tiềm năng của quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.
Về hợp tác trên các diễn đàn quốc tế và khu vực, hai bên đã phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong thời gian Việt Nam là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009; phát huy cơ chế tham vấn và ủng hộ nhau tại các diễn đàn đa phương, trong khuôn khổ Liên hợp quốc, Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) và quan hệ hợp tác đối tác ASEAN - Liên minh châu Âu (EU). Anh đã ủng hộ Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ủng hộ EU công nhận Việt Nam là nước có quy chế kinh tế thị trường và ủng hộ mạnh mẽ việc sớm ký kết và phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA).
Về vấn đề Biển Đông, Chính phủ Anh luôn thể hiện quan điểm nhất quán ủng hộ tôn trọng chủ quyền quốc gia, luật pháp quốc tế, cũng như việc duy trì an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông; ủng hộ xử lý mọi tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế được toàn thế giới công nhận, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực.
Nhìn tổng thể, quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam và Anh trong suốt 45 năm qua luôn được thúc đẩy trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi, cam kết tự do thương mại toàn cầu và sự phát triển bền vững, quyền con người, hợp tác đa phương, tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Đối tác chiến lược thực chất, hiệu quả
Song song với quan hệ chính trị - ngoại giao, việc tăng cường quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước trên các lĩnh vực kinh tế - thương mại, đầu tư, hợp tác phát triển, quốc phòng - an ninh, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, du lịch ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.
Kinh tế - thương mại là điểm sáng và cũng là trụ cột ưu tiên của quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Anh. Theo đánh giá của cựu Đại sứ Anh tại Việt Nam G. Le-vơ (Giles Lever), hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Anh phát triển nhanh nhất so với các đối tác khác của Anh trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương(2). Mặc dù chịu ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu (bùng phát năm 2008), song trao đổi thương mại hai chiều giữa hai nước vẫn tăng trưởng mạnh, trong đó xuất khẩu từ Anh vào Việt Nam tăng tới 28%, xuất khẩu từ Việt Nam vào Anh tăng 20%(3) và Việt Nam nhiều năm ở vị thế xuất siêu. Đặc biệt, sau tám năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, kim ngạch thương mại hai chiều đã ghi nhận mức độ tăng trưởng ấn tượng, từ 2,17 tỷ USD (năm 2010) lên 6,1 tỷ USD (năm 2017). Năm 2017, Anh trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ tám của Việt Nam, tăng 1 bậc so với năm 2016.
Các mặt hàng Việt Nam có lợi thế xuất khẩu sang Anh, bao gồm thủy, hải sản, gỗ và sản phẩm gỗ, hàng dệt may, giày dép, thiếc, máy vi tính, điện thoại và linh kiện điện tử. Trong giai đoạn 2013 - 2017, Anh luôn là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam trong EU, trong đó xuất khẩu xếp vị trí thứ ba và nhập khẩu xếp vị trí thứ tám. Đà tăng trưởng tích cực này tiếp tục được duy trì trong năm 2018, khi chỉ riêng trong quý I, xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Anh đạt 1,31 tỷ USD, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm 2017(4).
Về hợp tác đầu tư, Anh hiện là nhà đầu tư thuộc EU lớn thứ ba ở Việt Nam, đứng thứ 15 trong tổng số 116 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư tại Việt Nam, với 317 dự án đầu tư trực tiếp (FDI) còn hiệu lực và tổng số vốn đăng ký đạt gần 3,5 tỷ USD. Nếu như ban đầu các công ty Anh vào Việt Nam chủ yếu tập trung đầu tư vào lĩnh vực dầu khí (chiếm tới 70% tổng số vốn đầu tư), đến nay đầu tư của Anh tại Việt Nam không ngừng được mở rộng ra nhiều lĩnh vực mới, như dịch vụ tài chính, tài chính xanh, bảo hiểm, năng lượng tái tạo, xây dựng, bất động sản, công nghệ thông tin... Hiện Anh tham gia nhiều dự án lớn tại Việt Nam, trong đó có công trình xây dựng tòa tháp cao nhất Việt Nam (81 tầng) tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Về hợp tác phát triển, bên cạnh các dự án FDI, Anh là một trong những nước viện trợ phát triển chính thức (ODA) lớn cho Việt Nam, góp phần hiệu quả và thiết thực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trong giai đoạn 1992 - 1998, Anh đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam khoảng 24 triệu ơ-rô với 20 dự án hỗ trợ kỹ thuật trong các lĩnh vực giao thông - vận tải, năng lượng, dầu khí, xây dựng, giáo dục. Ngân sách ODA của Chính phủ Anh dành cho Việt Nam trong năm tài khóa 2003 - 2004 là 26 triệu bảng Anh; 2004 - 2005: 37 triệu bảng; 2005 - 2006: 60 triệu bảng; giai đoạn 2006 - 2010: 250 triệu bảng (ước tính bình quân khoảng 50 triệu bảng/năm) với khoảng 70% ngân sách hỗ trợ cho các chương trình liên quan đến giảm nghèo của Việt Nam (PRSC) và các lĩnh vực giáo dục, y tế, nước sạch, cũng như vệ sinh nông thôn, phòng, chống tham nhũng. Trong giai đoạn 2011 - 2016, Anh nâng mức viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam lên 74 triệu bảng. Bên cạnh đó, Anh tiếp tục dành cho Việt Nam nhiều chương trình hỗ trợ kỹ thuật song phương trong các lĩnh vực mà Anh có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu, như cải cách tư pháp, pháp luật, phòng, chống tham nhũng, cải thiện môi trường kinh doanh, nghiên cứu khoa học, ứng phó với các thách thức toàn cầu, như biến đổi khí hậu, phòng, chống buôn bán động vật hoang dã...
Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, kỹ năng, nghiên cứu và sáng tạo tiếp tục được hai nước thúc đẩy mạnh mẽ và là một trong những trọng tâm của quan hệ song phương, góp phần làm gắn kết hơn nữa quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia. Là một trong những nước có nền giáo dục tiên tiến và bề dày lịch sử lâu đời ở khu vực Tây Bắc Âu, trong thời gian qua Chính phủ Anh đã tích cực hỗ trợ Việt Nam thực hiện những dự án phát triển giáo dục, xây dựng mô hình các trường đại học, cao đẳng cộng đồng theo mô hình tiêu chuẩn của Anh phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam,... trong đó nổi bật là Đại học Việt Nam - Anh tại Đà Nẵng, Đại học Quốc tế Việt - Anh tại Hà Nội. Đồng thời, phía Anh cũng hỗ trợ Việt Nam xây dựng chính sách giáo dục, mở rộng hợp tác nghiên cứu, thực hiện các khóa đào tạo tiếng Anh, đào tạo các nhà quản lý, bước đầu mang lại hiệu quả tích cực, giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam. Hiện có khoảng 12.000 học sinh, sinh viên Việt Nam đang du học tại Anh. Nhiều nhà khoa học và giảng viên tại Việt Nam đã được cấp học bổng theo học tiến sĩ tại Anh...
Hợp tác quốc phòng - an ninh đã ghi nhận những bước phát triển đáng kể và thiết thực, thể hiện tính chiến lược của khuôn khổ quan hệ Việt Nam - Anh. Có thể nói, nội hàm “Đối tác chiến lược” Việt Nam - Anh cho thấy mức độ tin cậy cao và tính định hướng lâu dài của quan hệ giữa hai quốc gia. Trong khuôn khổ “Đối tác vì sự phát triển” trước đây, hợp tác quốc phòng - an ninh chỉ giới hạn trong hợp tác di cư, chống tội phạm có tổ chức và buôn bán người trái phép. Tuy nhiên, trong khuôn khổ quan hệ “Đối tác chiến lược”, hai bên đã mở rộng nội hàm hợp tác trên cơ sở các văn bản Hiệp định tương trợ tư pháp, Hiệp định về chuyển giao người bị kết án, Bản Ghi nhớ về hợp tác quốc phòng. Để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và tìm ra lĩnh vực hợp tác mới, thời gian qua hai bên đã thúc đẩy trao đổi đoàn các cấp, tổ chức đối thoại giữa Bộ trưởng Quốc phòng cũng như giữa các lực lượng quân đội; đẩy mạnh trao đổi kinh nghiệm, hợp tác giữa các trung tâm nghiên cứu về chiến lược quốc phòng, hợp tác đào tạo cán bộ và nhân viên kỹ thuật quốc phòng, đồng thời đẩy mạnh hợp tác về công nghiệp quốc phòng. Hai bên đã thành lập Nhóm công tác chung hợp tác về quốc phòng trong việc đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống; thành lập cơ chế tham vấn quốc phòng cấp thứ trưởng. Hợp tác trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình cũng được hai nước tích cực triển khai. Mới đây, Anh đã chuyển giao cho Việt Nam vận hành Bệnh viện dã chiến cấp 2 tại Nam Xu-đăng; hỗ trợ đào tạo tiếng Anh chuyên sâu cho các sĩ quan Việt Nam làm nhiệm vụ tại Bệnh viện dã chiến. Đây là một nét mới trong quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.
Quan hệ giữa hai nước còn được xây dựng trên nền tảng vững chắc của những kết nối du lịch bền chặt. Kể từ khi Việt Nam và Anh mở đường bay thẳng (tháng 11-2011) và Việt Nam thực hiện chính sách miễn thị thực đơn phương cho du khách một số nước châu Âu, trong đó có Anh, tới Việt Nam từ tháng 7-2015 với thời gian tạm trú 15 ngày, lượng khách du lịch Anh vào Việt Nam đã tăng đáng kể, từ 70.000 lượt khách (năm 2004) lên 283.537 lượt khách (năm 2017)(5), tăng trưởng trung bình trên 20%/năm. Riêng trong 7 tháng đầu năm 2018, Việt Nam đã đón gần 180.000 lượt khách du lịch Anh(6). Những con số đáng khích lệ này cho thấy, du lịch là lĩnh vực mà hai nước còn rất nhiều tiềm năng để mở rộng hợp tác, qua đó góp phần tăng cường giao lưu văn hóa và nhân dân, nâng cao hiểu biết và tin cậy lẫn nhau.
Nền tảng tốt đẹp cho tương lai
Đạt được quan hệ tốt đẹp như ngày nay, ngoài nền tảng vững chắc cùng với những nỗ lực không ngừng của các thế hệ lãnh đạo, cũng như nhân dân hai nước, một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Anh liên tục phát triển chính là vị trí và tầm quan trọng của hai nước trong chiến lược phát triển của mỗi nước.
Đối với Việt Nam, Anh là một đối tác ưu tiên ở khu vực châu Âu. Về phần mình, Anh cũng đánh giá cao vai trò, vị thế của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á cũng như tiềm năng phát triển quan hệ giữa hai quốc gia. Trong bối cảnh chính trường Anh và châu Âu có nhiều biến động trước sự kiện nước Anh rời khỏi EU (Brexit), cả Việt Nam và Anh đều mong muốn quan hệ song phương sẽ tiếp tục phát triển sâu rộng và không chịu ảnh hưởng của bất kỳ những xáo trộn hay gián đoạn nào, bảo đảm sự liên tục trong các lĩnh vực hợp tác chủ chốt. Do đó, trên tinh thần “Đối tác toàn diện”, hai bên nhất trí đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa hai nước, tiếp tục triển khai nhiều dự án trên các lĩnh vực.
Về chính trị đối ngoại, hai bên tiếp tục duy trì thường xuyên các chuyến thăm cấp cao, đồng thời tăng cường hơn nữa việc trao đổi và hợp tác ở cấp bộ trưởng và quan chức cấp cao giữa các cơ quan liên quan của Chính phủ hai nước, thúc đẩy giao lưu Quốc hội, chính đảng, chính quyền địa phương và nhân dân hai nước; tiếp tục hợp tác chặt chẽ tại các thể chế đa phương trên tinh thần xây dựng và tôn trọng lẫn nhau, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các bên.
Về thương mại - đầu tư, hai bên coi thương mại và đầu tư hai chiều là động lực quan trọng của quan hệ giữa hai nước; đánh giá cao những tiềm năng kinh tế của nhau. Mặc dù trao đổi thương mại hai chiều Việt Nam - Anh đạt tốc độ tăng trưởng tích cực trong thời gian qua, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Mức đầu tư tài chính của Anh vào Việt Nam vẫn hạn chế. Trong khi đó, tiềm năng hợp tác song phương còn rất lớn trên cơ sở thuận lợi của tính tương hỗ giữa hai nền kinh tế, khi Anh là một nền kinh tế mở, là một trong những trung tâm thương mại, tài chính hàng đầu thế giới, và Việt Nam cũng là một nền kinh tế có độ mở cao và hướng vào xuất khẩu... Để khai thác tốt những lợi thế này, Ủy ban Hỗn hợp về kinh tế và thương mại (JETCO) cần tiếp tục hoạt động hiệu quả hơn nữa, đề ra được những biện pháp hữu hiệu để góp phần tháo gỡ các rào cản, khó khăn trong thương mại, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch cho cộng đồng doanh nghiệp hai nước. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần chủ động hơn nữa trong công tác quảng bá, xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư, không chỉ là những dự án đầu tư trực tiếp mà còn là những dự án đầu tư gián tiếp thông qua các quỹ tài chính của Anh.
Với việc Anh rời khỏi EU, hầu hết các lãnh đạo nước Anh đến Việt Nam đều khẳng định, Brexit không phải là biểu hiện của việc Anh “đang quay lưng lại” với tự do hóa thương mại, mà sẽ mở ra cơ hội to lớn để hai nước tăng cường quan hệ kinh tế - thương mại. Phía Anh cũng đã chủ động trao đổi với Việt Nam về việc thành lập các cơ chế song phương “hậu Brexit”, như cơ chế đối thoại không chính thức về các vấn đề thương mại. Hai bên đã tiến hành cuộc họp ở cấp làm việc đầu tiên để định hướng quan hệ kinh tế - thương mại trong tương lai, trong đó có hiệp định thương mại tự do song phương.
Về hợp tác quốc phòng - an ninh, với sự thành công của Kỳ hợp lần thứ 5 của Nhóm Công tác song phương về hợp tác quốc phòng Việt Nam - Anh (tháng 11-2017), cả hai nước đều thể hiện quyết tâm nâng tầm quan hệ quốc phòng song phương thông qua tăng cường các chuyến thăm, trao đổi đoàn các cấp, đồng thời tiếp tục bổ sung, nâng cấp cơ chế hợp tác hiện nay, nâng cao hơn nữa năng lực của Nhóm Công tác song phương về hợp tác quốc phòng. Hai bên cũng sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong vấn đề gìn giữ hòa bình.
Hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, văn hóa - du lịch, khoa học - công nghệ,... cũng cần tiếp tục được đẩy mạnh.
Trên bình diện khu vực và quốc tế, hai bên tiếp tục chia sẻ thông tin, tăng cường hợp tác tại các diễn đàn đa phương, trong khuôn khổ Liên hợp quốc và Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM); phối hợp ứng phó với các thách thức chung, như phổ biến vũ khí hóa học và hạt nhân, khủng bố quốc tế, biến đổi khí hậu,... Trên cương vị là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cùng với chính sách ngoại giao “Nước Anh toàn cầu” (Global Britain), Anh được kỳ vọng sẽ tham gia tích cực hơn nữa và có cách tiếp cận chiến lược, toàn diện đối với châu Á - Thái Bình Dương - một khu vực đang phát triển năng động, được xem là động lực của tăng trưởng và liên kết kinh tế toàn cầu, song cũng đang phải đối mặt với không ít rủi ro, thách thức cùng những diễn biến an ninh phức tạp. Phía Anh đã nhiều lần thể hiện sự quan tâm đối với việc tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thời “hậu Brexit” và cho rằng CPTPP “có tầm quan trọng vượt qua ý nghĩa về kinh tế mà là chiến lược khu vực và toàn cầu”(7).
Kỷ niệm 45 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Anh là dịp để hai bên cùng nhìn lại chặng đường đã qua và xác định hướng đi trong thời gian tới. Với những thành quả đã đạt được, có thể khẳng định, quan hệ “Đối tác chiến lược” Việt Nam - Anh phát triển ngày càng toàn diện, sâu rộng trên tất cả lĩnh vực. Mặc dù chặng đường phía trước còn nhiều thách thức, song sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau cùng những cam kết, nỗ lực tăng cường từ cả Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Anh sẽ là động lực để hai nước nắm bắt cơ hội thuận lợi nhằm làm sâu sắc hơn nữa quan hệ “Đối tác chiến lược” trong tương lai, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển thịnh vượng trong khu vực cũng như trên thế giới. /.
-----------------------------------------------
(1) Sau Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Tây Ban Nha
(2) Xem: https://www.vietnamplus.vn/vuong-quoc-anh-se-tiep-tuc-doi-moi-hop-tac-kinh-te-voi-viet-nam/506740.vnp
(3) Xem: http://kinhtevn.com.vn/that-chat-quan-he-doi-tac-chien-luoc-viet-nam-vuong-quoc-anh-27201.html
(4) Xem: http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2018-05-09/xuat-khau-hang-viet-nam-sang-anh-tang-hon-30-57224.aspx
(5) Xem: http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/25583
(6) Xem: http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/27020
(7) Xem: https://vov.vn/the-gioi/anh-de-ngo-kha-nang-tiep-can-cptpp-hau-brexit-794780.vov
Bóc trần và đấu tranh với thủ đoạn ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch về phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội  (11/10/2018)
Góp ý Dự thảo Quy định của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và chống chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ  (11/10/2018)
Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền  (10/10/2018)
Sự kiện trong nước nổi bật tuần qua (từ ngày 01 đến ngày 07-10-2018)  (10/10/2018)
Chủ động phòng, chống dịch bệnh về hô hấp khi chuyển mùa  (10/10/2018)
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
- Một số nội dung chủ yếu trong đường lối, chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên quan đến chuyển đổi công nghiệp
- Mối quan hệ giữa già hóa dân số và tăng trưởng kinh tế: Kinh nghiệm của Nhật Bản và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Một số giải pháp đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên