Thể chế pháp quyền của công dân và của Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Nguyễn Thanh Tuấn PGS, TS, Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
22:17, ngày 15-09-2017

TCCS - Thể chế pháp quyền của công dân và của nhà nước là một dạng thể chế “tuy hai mà một” trong nội hàm của nhà nước pháp quyền. Lịch sử xây dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới cho thấy, để xây dựng thành công thể chế pháp quyền của nhà nước phải đồng thời, thậm chí trước tiên coi trọng việc thiết lập thể chế pháp quyền của công dân.

Những vấn đề đặt ra trong quan hệ giữa công dân và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Cho đến nay, ở Việt Nam quan điểm và cách thức xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền chủ yếu tập trung vào xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của Nhà nước, mà hầu như chưa chú ý đúng mức đến việc xây dựng thể chế pháp quyền của công dân với tính cách là nền móng và mục đích tổ chức, hoạt động của nhà nước pháp quyền. Hệ quả là, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã diễn ra trong hơn 20 năm, nhưng người dân và cả cán bộ, công chức, viên chức nhà nước vẫn hầu như chưa quan hệ với Nhà nước bằng quyền công dân theo đúng nghĩa của nó, mà nhiều khi bằng quan hệ mang tính “cộng đồng - tình nghĩa”, “cá nhân - cá thể” và tính bao cấp.

Tính “cộng đồng - tình nghĩa” thể hiện thông qua các quan hệ bác - cháu, chú - cháu, anh - em, chị - em,... trong cả việc công và việc tư ở cơ quan, thậm chí những việc công càng quan trọng thì người ta càng hay dùng đến quan hệ mang tính “cộng đồng - tình nghĩa”. Tính “cá nhân - cá thể” biểu hiện ở chỗ, chỉ tìm cách vun quén cho lợi ích cá nhân. Nhiều cán bộ, công chức, viên chức đến cơ quan chủ yếu “đút chân vào gầm bàn”, làm việc “chiếu lệ” và vô trách nhiệm theo kiểu “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”. Không ít người chỉ chăm chỉ khi làm việc cho bản thân mình; còn khi “làm công ăn lương” thì lại lười biếng, tìm cách lợi dụng các chế độ, chính sách. Có mặt lãnh đạo cơ quan thì thể hiện tính chuẩn mực công sở; vắng mặt lãnh đạo cơ quan thì láo nháo, giả dối; tính kiên trì và chịu đựng kém; khi thiệt một chút cho mình để lợi cho việc công, cho đồng nghiệp khác là không chịu được. Ở không ít cơ quan, quan hệ giữa các đồng nghiệp theo kiểu “cá mè một lứa” hay tính tôn trọng giữa các đồng nghiệp với nhau kém, nên không giữ được sự tôn trọng và kỷ cương công sở. Hơn thế, ở một số cán bộ, công chức, viên chức, cách ứng xử với người dân cũng kém, thể hiện ở hiện tượng quan liêu, cửa quyền, hách dịch, thậm chí có khi còn tìm cách “bóp nặn” người dân.

Tính bao cấp không chỉ đơn thuần là di sản của cơ chế tập trung - bao cấp, mà xét về bản chất, còn vừa là thuộc tính, vừa là “cơ chế” thực hiện tính “cộng đồng - tình nghĩa” và tính “cá nhân - cá thể”. Tính bao cấp thể hiện ở chỗ, sau hơn 20 năm chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xã hội và con người vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi cách nghĩ, cách làm có tính bao cấp. Nhiều người trong và ngoài nhà nước vẫn tìm cách bám vào nguồn lực bao cấp về vật chất và tinh thần từ Nhà nước (ngân sách, kinh phí hỗ trợ phát triển, biên chế,...) và cả từ cộng đồng. Khi nắm được các nguồn lực bao cấp từ Nhà nước, cộng đồng thì họ tìm mọi cách có đặc quyền, đặc lợi, lợi ích nhóm, hay tham nhũng, quan liêu, lãng phí; khi không được hưởng các nguồn lực bao cấp thì tỏ ra bất mãn, có những phát ngôn và hành động tiêu cực,...

Có thể nói, quan hệ mang tính “cộng đồng - tình nghĩa”, “cá nhân - cá thể” và tính bao cấp đã làm cho vị trí, vai trò công dân, quan hệ kiểu công dân và tính “kỷ cương, phép nước” hay nói chung là tính pháp quyền, bị lu mờ.

Nguyên nhân là, về mặt khách quan, trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp; di sản tâm lý tiểu nông và tàn dư tư tưởng phong kiến còn chi phối trong một bộ phận không nhỏ thành viên xã hội, nhất là với sự tác động của quan hệ cạnh tranh, bươn trải trong kinh tế thị trường. Tất cả những yếu tố đó đã làm cho quan hệ pháp quyền của công dân và thể chế pháp quyền của Nhà nước ở vào tình thế phải cạnh tranh gay gắt với các quan hệ mang tính “cộng đồng - tình nghĩa”, “cá nhân - cá thể” và tính bao cấp của các cá nhân “rời rạc như những củ khoai tây” và cả của nhiều tổ chức nhà nước. Từ đó sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực trên nhiều phương diện, nhất là đến các quan hệ qua lại giữa Nhà nước và công dân - từ việc xây dựng, ban hành các quy định pháp luật, cho đến thái độ, trách nhiệm, hoạt động của tổ chức nhà nước và hành vi của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong giải quyết các công việc của Nhà nước và trong quan hệ với người dân.

Về mặt chủ quan, trong xây dựng lý luận và thể chế pháp luật về Nhà nước pháp quyền XHCN, chúng ta chưa chú ý đúng mức đến mối quan hệ bình đẳng bằng pháp luật giữa Nhà nước và công dân trong nhà nước pháp quyền. Chúng ta hầu như chỉ quan tâm đến xây dựng thiết chế, thể chế pháp quyền của Nhà nước mà không đồng thời quan tâm xây dựng, phát triển quyền công dân, quyền con người và quan hệ công dân, với tính cách là nền móng và mục đích của nhà nước pháp quyền.

Trong khi Nhà nước buộc công dân phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình, thì ngược lại, trong nhiều trường hợp, Nhà nước, cơ quan nhà nước lại thiếu hoặc gần như thờ ơ trong việc quy định hay thực hiện nghĩa vụ của mình đã được pháp luật quy định đối với trách nhiệm bảo đảm quyền của công dân. Đặc biệt, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế và yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN đã và sẽ nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp hơn đối với việc giải quyết mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân, như: 1- Quan hệ qua lại giữa Nhà nước - doanh nghiệp - công dân trong việc phát triển và giải quyết các vấn đề kiến tạo phát triển, khởi nghiệp, sản xuất, kinh doanh, hay trực tiếp là thu hồi, đền bù quyền sử dụng đất, giải phóng mặt bằng; 2- Quan hệ qua lại giữa Nhà nước và công dân trong phát triển và giải quyết các vấn đề xã hội; 3- Quan hệ qua lại giữa Nhà nước và công dân trong phát triển và giải quyết các vấn đề hội nhập quốc tế; 4- Quan hệ qua lại giữa Nhà nước và công dân trong việc xác lập vị trí, vai trò của công dân với tư cách là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; 5- Quan hệ bình đẳng giữa các công dân với nhau và quan hệ bình đẳng giữa công dân và các thiết chế, thể chế nhà nước;...

Nhìn chung, có thể nói, cho đến nay ở nước ta dường như người dân quan hệ với Nhà nước theo cách nhìn chủ quan của mình; và một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong quan hệ với công dân cũng có phần tùy tiện theo cách nhìn chủ quan của mình. Tình trạng quan hệ có tính chủ quan đó đã kìm hãm sự phát triển của các quan hệ khách quan giữa công dân và Nhà nước; từ đó tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của Nhà nước và của cả công dân nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Xây dựng thể chế pháp quyền của công dân và của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Công dân là nền móng và mục đích tồn tại của Nhà nước, và Nhà nước là khuôn khổ pháp lý để công dân tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện mục đích của mình. Vì thế, Đại hội XII của Đảng khẳng định, phải “Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân”(1). Theo tinh thần này, ở nước ta hiện nay, cần bảo đảm quyền công dân nói chung, để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Nhưng thực tế cho thấy, việc thừa nhận và xác lập quyền bình đẳng của các công dân đã là một vấn đề không dễ dàng, thì việc thừa nhận và xác lập sự bình đẳng giữa công dân và Nhà nước bằng pháp luật để xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền còn là một vấn đề nan giải hơn. Hiện nay, ở nước ta, để thiết lập quyền bình đẳng giữa các công dân và quan hệ bình đẳng giữa công dân và Nhà nước bằng pháp luật, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khung khổ thể chế nhà nước pháp quyền, nhằm thực hiện nghĩa vụ bảo đảm công lý, quyền con người, quyền công dân.

Cho đến nay, chúng ta giải quyết mối quan hệ bình đẳng giữa các công dân và Nhà nước chủ yếu là thông qua pháp chế XHCN. Điểm tương đồng giữa pháp chế XHCN và nhà nước pháp quyền là đòi hỏi nhà nước phải có một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh. Pháp chế XHCN yêu cầu các công dân, kể cả công dân là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và cơ quan nhà nước phải tuân thủ nghiêm túc pháp luật; còn nhà nước pháp quyền nhấn mạnh nguyên tắc mọi cơ quan nhà nước phải được đặt dưới pháp luật. Pháp chế XHCN và nhà nước pháp quyền đều yêu cầu bảo vệ nghiêm ngặt pháp luật, đấu tranh chống tình trạng vi phạm pháp luật. Nhưng nhà nước pháp quyền có nội dung rõ hơn, cụ thể hơn và rộng hơn, vì bao gồm cả quan hệ bình đẳng giữa quyền công dân và nghĩa vụ của nhà nước bằng pháp luật. Nhà nước pháp quyền, trong khi khẳng định vai trò cơ quan lập pháp trong tạo lập khung thể chế luật pháp bình đẳng cho mọi tổ chức và công dân hoạt động thì đặc biệt nhấn mạnh vai trò và nghĩa vụ của hệ thống hành pháp, tư pháp trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình nhằm bảo đảm quyền công dân và quyền con người nói chung.

Ở Việt Nam, quan điểm về Nhà nước pháp quyền XHCN lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII, ngày 29-11-1991. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) lần đầu tiên đã chế định “Nhà nước pháp quyền XHCN”. Các điều 2, 3 và 4 Hiến pháp năm 2013 đã chế định thể chế nhà nước, công dân và Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 cũng dành Chương 2 để hiến định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, ngay sau hiến định về chế độ chính trị ở Chương 1. Nhưng cho đến nay, thể chế quyền công dân chưa được xây dựng, hoàn thiện tương xứng với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế nhà nước pháp quyền. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế nhà nước pháp quyền theo hướng:

- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp luật, để hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và ổn định, tạo thành hệ thống quy phạm pháp luật được sắp xếp có trật tự sao cho quyền lực của công dân và đặc biệt là của Nhà nước phải chịu sự giới hạn. Trong khuôn khổ đó, thẩm quyền và các quy phạm của các cơ quan nhà nước và của công dân phải được xác định một cách rõ ràng và chỉ có hiệu lực hay chỉ thành pháp quyền với điều kiện tuân thủ toàn bộ các quy phạm có hiệu lực cao hơn (và cả thấp hơn). Cao nhất của hệ thống khung khổ pháp luật là Hiến pháp với cơ chế bảo hiến có thẩm quyền phán xử minh bạch. Đây là hạt nhân để khung khổ pháp luật mang tính pháp quyền.

- Thể chế hóa khung khổ pháp luật của Nhà nước: Các quyết định của Nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc chịu sự kiểm soát của quyền lực công trong khung khổ pháp luật chung, vốn trước tiên dựa trên các nguyên tắc hiến định. Theo nguyên tắc đó, các cưỡng chế nhắm vào Nhà nước sẽ trở nên mạnh mẽ: các quy định mà Nhà nước đưa ra và các quyết định mà Nhà nước ban hành phải tuân thủ toàn bộ các quy phạm pháp luật cao hơn đang có hiệu lực (các luật, điều ước quốc tế và các nguyên tắc mang tính Hiến pháp), và không được quyền hưởng bất kỳ ưu tiên nào về mặt tài phán. Muốn vậy, cần tuân thủ nguyên tắc cơ bản là các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân công, phối hợp và kiểm soát nhau trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

- Trong khung khổ pháp luật, các quy phạm pháp luật được sắp xếp có trật tự, để buộc các công dân và nhất là Nhà nước (thiết chế, nhân viên, văn bản quản lý, kể cả những nhân viên nhà nước cao cấp nhất) phải chấp hành pháp luật. Trong khung khổ đó, vai trò của các cơ quan tài phán là vô cùng cần thiết và sự độc lập của tư pháp là mặc nhiên và bắt buộc; bởi chỉ duy nhất có nó được quyền giải thích và phán xử theo luật pháp. Do đó, phải tập trung xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhằm thực hiện nghĩa vụ bảo đảm công lý, quyền con người, quyền công dân. Cụ thể, quy định đầy đủ hơn, cụ thể hơn, rõ ràng hơn về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước, của các chức danh, chức vụ của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, nhất là hoàn thiện thể chế (cơ chế) bảo đảm và những ràng buộc pháp lý về chế độ chịu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước công dân khi có hành vi gây thiệt hại cho công dân trong thi hành công vụ, ở cả 3 phương diện: tổ chức; cán bộ, công chức, viên chức; văn bản quản lý hành chính (hay văn bản dịch vụ công).

Hiện nay thể chế (cơ chế) nói trên còn nhiều thiếu sót, hạn chế trong cả hai mặt: quy định của pháp luật, nhất là về cơ chế kiểm soát văn bản quản lý của các cơ quan nhà nước; và việc thực hiện trong thực tế. Cho đến nay, Nhà nước đã có một số văn bản liên quan đến thể chế này, như Bộ luật Dân sự quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với việc bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây nên; cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây nên khi tiến hành các hoạt động tố tụng; Luật Hành chính có một số quy định về trách nhiệm bồi thường vật chất của cơ quan và cán bộ, công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ gây thiệt hại cho công dân...

Tuy vậy, những quy định nêu trên còn chưa đầy đủ, chẳng hạn như còn thiếu thể chế bảo đảm và những ràng buộc pháp lý về chế độ chịu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với các văn bản quản lý hành chính của mình. Và vấn đề đáng quan tâm là, mặc dù đã có quy định của pháp luật, nhưng trong nhiều trường hợp, cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước vẫn không muốn thực hiện trách nhiệm của mình, cố tình đổ lỗi, né tránh hoặc đùn đẩy cho cơ quan khác, người khác. Hiện tượng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước giải quyết công việc chậm trễ, dây dưa, quá thời gian quy định, gây tốn kém công sức, thời giờ, tiền bạc,... của người dân mà không phải chịu trách nhiệm đang là vấn đề cần phải được khắc phục trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, tiếp tục thể chế hóa quyền con người, quyền công dân và nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công dân, nhằm hình thành thể chế pháp quyền của công dân.

Một vấn đề hết sức quan trọng hiện nay là phải thể chế hóa các quyền hiến định của công dân trên cả hai tư cách: quyền con người và quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, để các quyền này thực sự được bảo đảm trong thực tế cuộc sống. Đồng thời, cần cụ thể hóa nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công dân, sao cho quyền của Nhà nước được bảo đảm bằng nghĩa vụ của công dân và quyền của công dân được bảo đảm bằng nghĩa vụ của Nhà nước.

Cần xây dựng thể chế quyền công dân theo hướng các công dân trong và ngoài cơ quan nhà nước đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong quan hệ với Nhà nước. Cụ thể:

- Các cá nhân cũng như pháp nhân của khung khổ pháp luật đều bình đẳng trước pháp luật. Theo đó, các cá nhân cũng như pháp nhân của luật đều có thể tranh cãi một cách bình đẳng với các quyết định của cơ quan công quyền.

- Tạo lập sự gắn kết hữu cơ giữa quyền tự do, dân chủ của công dân với quyền của mọi pháp nhân phù hợp với hiến pháp. Muốn vậy, hệ thống quy phạm pháp luật phải được sắp xếp có trật tự, để công dân cả trong và ngoài cơ quan nhà nước đều phải có trách nhiệm với Nhà nước; đồng thời Nhà nước phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, quyền của công dân cả trong và ngoài Nhà nước. Không thể có nhà nước pháp quyền nếu như không có công dân và không có quan hệ bình đẳng giữa công dân với nhà nước.

- Hoàn thiện và cụ thể hóa các quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân theo hướng “công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm”. Xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của công dân trong quan hệ với Nhà nước, cả với tư cách người dân và cả với tư cách cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp luật về phản biện xã hội, giám sát xã hội, nhằm tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội, các cơ quan thông tin đại chúng, đặc biệt là vai trò của báo chí, các trang mạng,... trong việc kiểm tra, giám sát các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Qua đó, phát hiện những vi phạm trong các mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước, góp phần bảo đảm công lý, công bằng xã hội, quyền con người, quyền công dân.

- Tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm trước công dân cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Trong đó, đề cao trách nhiệm bảo đảm các quyền của công dân và thái độ dám chịu trách nhiệm trong thi hành nhiệm vụ, công vụ, chống hiện tượng khi phải chịu trách nhiệm thì tìm cách “chạy trách nhiệm”, né tránh, đùn đẩy,...; và đặc biệt, vấn đề dám chịu trách nhiệm phải thường xuyên và thực sự được đề cao, trở thành một “danh dự công vụ”.

- Đề cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của các tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra đảng các cấp đối với tổ chức đảng và đảng viên giữ chức vụ trong các cơ quan nhà nước, để các cơ quan nhà nước và các đảng viên hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và chịu sự giám sát nghiêm minh của pháp luật. Xử lý nghiêm minh đối với các đảng viên vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước.

Thứ ba, xây dựng mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước, xã hội và cá nhân (công dân) theo nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.

1- Thực hiện sự can thiệp có mức độ và hợp lý của Nhà nước vào khu vực doanh nghiệp và tổ chức xã hội thông qua các biện pháp: Giảm bớt một cách tối ưu việc “hình sự hóa” sản xuất, kinh doanh của người dân; thúc đẩy phong trào khởi nghiệp; tiếp tục phát huy đầy đủ vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và xã hội. Thông qua đó, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước kiến tạo phát triển, nhằm tiếp tục thúc đẩy mối quan hệ đúng đắn giữa Nhà nước, xã hội và cá nhân (công dân). Và trong quan hệ với thị trường, với xã hội và với cá nhân (công dân), Nhà nước chỉ nên đóng vai trò tạo ra “luật chơi”, “sân chơi”, “cách chơi” và tổ chức cung ứng dịch vụ công.

2- Nhà nước can thiệp vào các thiết chế của xã hội chỉ bằng pháp luật. Tuy nhiên, cần có sự kết hợp, thống nhất giữa quản lý xã hội bằng pháp luật và quản lý xã hội bằng đạo đức. Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý xã hội, song cũng cần bổ sung bằng cách chắt lọc, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống mà cuộc sống ngày hôm nay vẫn đang cần có chúng. Cách xử lý là lấy pháp luật làm trụ cột, lấy tục lệ bổ sung cho những khiếm khuyết, khoảng trống của pháp luật, hoặc để cụ thể hóa pháp luật (chủ yếu được thực hiện ở địa phương, cơ sở).

Có nhiều cơ chế kiểm soát khác nhau, nhưng dù vận dụng cơ chế nào cũng phải tuân thủ một nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền là: bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và pháp luật bằng thể chế cụ thể, chứ không chỉ bằng giáo dục, tuyên truyền. Bất cứ cá nhân hay tập thể nào, kể cả cơ quan nhà nước, nếu vi phạm Hiến pháp và pháp luật thì đều bị điều tra và đưa ra xét xử công khai, minh bạch tại tòa án./.

------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 137