Nâng cao chất lượng đảng viên - Vấn đề cốt lõi để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong tình hình hiện nay
TCCSĐT - Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”(1). Do vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nội dung quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng, là cốt lõi để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong thực tế, “mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm, mọi Nghị quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành, mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng, mọi khẩu hiệu, kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”, do đó, việc nâng cao chất lượng đảng viên có tầm quan trọng đặc biệt, không chỉ là nền tảng để xây dựng, củng cố đội ngũ đảng viên, còn tác động đến uy tín, đến năng lực lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ đảng viên tốt thì uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng được nâng lên, đội ngũ đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, yếu kém về năng lực chuyên môn thì Đảng giảm sút khả năng lãnh đạo và sức chiến đấu, thậm chí có thể dẫn đến làm biến chất, làm tan rã Đảng, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng đã nhấn mạnh “sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ”.
Thực trạng đội ngũ đảng viên
Tính đến năm 2014, toàn Đảng có 4.480.707 đảng viên, sinh hoạt ở 262.894 chi bộ thuộc 56.548 tổ chức cơ sở đảng, thuộc 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương. Trong đó, số đảng viên sinh hoạt ở xã là 1.888.352 (42,1%); sinh hoạt ở phường, thị trấn là 853.357 (19,1%); sinh hoạt tại các doanh nghiệp nhà nước là 266.541 (5,9%); tại các doanh nghiệp cổ phần vốn nhà nước là 113.568 (2,53%); tại các doanh nghiệp tư nhân là 45.824 (1,02%); tại các tổ chức đảng có vốn đầu tư nước ngoài là 9.470 (0,21%), tại các đơn vị sự nghiệp là 289.179 (6,45%), tại các cơ quan hành chính là 422.900 (9,38%), trong quân đội, công an là 550.898 (12,3%), trong các tổ chức đảng ngoài nước là 10.000 (0,23%).
Đánh giá về công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, phát triển đảng viên, Văn kiện Đại hội XII của Đảng cho biết: “việc phát triển và nâng cao chất lượng đảng viên đã được các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung chỉ đạo thực hiện, nhất là đối với những tổ chức cơ sở đảng yếu kém, có nhiều khó khăn, những địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; thu hẹp đáng kể tình trạng chi bộ sinh hoạt ghép, chưa có chi bộ ở các thôn, ấp, bản, làng. Số đảng viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, trí thức, học sinh, sinh viên, dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo, người lao động trong các thành phần kinh tế và chủ doanh nghiệp tư nhân tăng hơn so với khóa trước. Tuổi bình quân kết nạp đảng trong nhiệm kỳ này trẻ hơn so với trước”(2).
Số lượng đảng viên ngày càng tăng: Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, tỷ lệ đảng viên được kết nạp mới hằng năm đạt trên 4% so với tổng số đảng viên. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng đến hết năm 2014, toàn Đảng đã kết nạp được 861.830 đảng viên mới, trong đó số đảng viên mới là đoàn viên thanh niên, phụ nữ, người dân tộc thiểu số, công nhân lao động đều tăng hơn khóa trước (đảng viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên chiếm tỷ lệ 65,46%, phụ nữ chiếm 39,94%, là người dân tộc thiểu số chiếm 13,47%, là công nhân lao động chiếm 8,22%). Năm 2015, toàn Đảng kết nạp trên 200.000 đảng viên, nâng tổng số đảng viên trong toàn Đảng lên trên 4,65 triệu, chiếm 4,75% dân số.
Đa số đảng viên được đào tạo bài bản về chuyên môn: Đảng viên có trình độ tiến sĩ là 15.731 đồng chí, chiếm 0,36%; thạc sĩ là 82.414 đồng chí, chiếm 1,92%; đại học là 1.213.483 đồng chí, chiếm 28,37%; cao đẳng là 394.179 đồng chí, chiếm 9,21%; trung học chuyên nghiệp là 800.671 đồng chí, chiếm 18,72%. Hầu hết đảng viên có trình độ chuyên môn, có nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công việc, đáp ứng và hoàn thành tốt công việc được giao.
Đa số đảng viên đều thể hiện phẩm chất chính trị vững vàng: Đội ngũ đảng viên đã cơ bản xây dựng được bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng; có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh; thực hiện đúng các quy định về những điều đảng viên không được làm, về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy tinh thần đoàn kết; luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ được giao; tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua... Việc đánh giá theo Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW, ngày 25-9-2014, về kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên hằng năm được thực hiện thường xuyên và ngày càng thực chất hơn. Số đảng viên được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hằng năm đạt trên 85%.
Một số vấn đề đặt ra
Tuy nhiên, những năm qua, nhận thức, tư tưởng chính trị, phẩm chất và hành động của đội ngũ đảng viên có những biểu hiện thiếu tích cực. Cụ thể là:
Thứ nhất, tính chiến đấu, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình của một bộ phận không ít đảng viên yếu, có xu hướng thấy đúng không dám và không muốn bảo vệ, thấy sai không dám và không muốn đấu tranh vì ngại va chạm, vì muốn “dĩ hòa vi quý”, cá biệt có tâm lý buông xuôi.
Thứ hai, một số đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, cả trong đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, quản lý và cán bộ trực tiếp thực thi. Đặc biệt, trong các cơ quan nhà nước vẫn còn biểu hiện cán bộ là đảng viên gây phiền hà, gây khó khăn để sách nhiễu người dân và doanh nghiệp.
Thứ ba, một bộ phận chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa gương mẫu trong công tác, thờ ơ, vô cảm, thậm chí có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, chạy vị trí công tác, chạy tội, chạy bằng cấp, vi phạm quy chế, quy định của cơ quan, đơn vị, vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Những khuyết điểm, hạn chế nêu trên bên cạnh nguyên nhân khách quan do tác động của cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, tâm lý xã hội, do những khoảng trống trong cơ chế, pháp luật, do sự lỏng lẻo trong lãnh đạo, quản lý, những thiếu sót trong công tác cán bộ, còn có nguyên nhân chủ quan từ cá nhân mỗi đảng viên. Một bộ phận đảng viên chạy theo các nhu cầu vật chất, một bộ phận tự thỏa mãn với những gì đã có nên không tiếp tục học tập, trau dồi để nâng cao trình độ kiến thức, chưa cố gắng khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ; chưa tích cực rèn luyện tư tưởng, đạo đức, nâng cao bản lĩnh chính trị để vượt qua các cám dỗ vật chất; còn buông thả trong cuộc sống và sinh hoạt, đề cao chủ nghĩa cá nhân. Từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) đã nhấn mạnh đây là một trong 4 nguy cơ lớn đối với Đảng. Đại hội XII của Đảng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ “ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(3). Đồng thời, đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ đảng viên hiện nay là “Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng”(4).
Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Một là, tăng cường giáo dục ý thức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ đảng viên.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào”(5). Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên được hình thành, tôi luyện qua quá trình hoạt động thực tiễn và qua giáo dục. Trong quá trình hoạt động, người đảng viên thường xuyên được giáo dục thì bản lĩnh chính trị sẽ được củng cố, khi đối mặt với khó khăn, thách thức sẽ vững vàng vượt qua. Bên cạnh đó, phát huy tính tự giác rèn luyện của mỗi đảng viên được coi là phương thức quan trọng và trực tiếp để mỗi đảng viên tự hoàn thiện bản thân, giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao ý thức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh rằng “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố”(6). Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn tự mình trau dồi, rèn luyện, tu dưỡng các phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, tích cực thực hiện Chỉ thị số 05, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “đảng viên tốt thì chi bộ mới tốt. Muốn đảng viên tốt thì chi bộ phải thường xuyên giáo dục mỗi đồng chí”. Để nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu: “Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng”(7). Trong tình hình hiện nay, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải bám sát quan điểm của Đảng, nắm vững lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Đây là yếu tố quan trọng, quyết định thành bại trong công tác xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hai là, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ đảng viên.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên toàn diện về mọi mặt, trong đó chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu công tác. Khuyến khích, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên tham gia học tập. Đồng thời, chú trọng chất lượng đào tạo, hướng về thực tế. Công tác thi đua, khen thưởng, lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ cũng phải lấy hiệu quả công việc là một trong những thước đo chính. Nâng cao chất lượng đảng viên là cơ sở để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Chất lượng mỗi đảng viên là một yếu tố tạo thành chất lượng của tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đảng viên có trình độ trí tuệ và năng lực chuyên môn thì năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được nâng lên, quần chúng nhân dân ngày càng gắn bó và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, thường xuyên sàng lọc, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của Đảng là biện pháp giáo dục, ngăn ngừa, hạn chế tình hình vi phạm kỷ luật đảng của đảng viên. Chính vì thế, công tác kiểm tra, giám sát đảng viên có ý nghĩa hết sức quan trọng và phải được tiến hành thường xuyên, công tâm, khách quan, phải gắn với thi hành kỷ luật Đảng.
Trong bối cảnh, đạo đức con người đang chịu những ảnh hưởng to lớn của các lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân, Đảng ta đã xác định việc nâng cao chất lượng đảng viên phải đi đôi với nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ đảng viên. Đồng thời, thường xuyên kiểm tra, sàng lọc kiên quyết đưa ra khỏi Đảng, thậm chí xử lý nghiêm minh những đảng viên thoái hóa về chính trị, tư tưởng, vi phạm đạo đức, lối sống, tham nhũng, cố tình vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đây được coi là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, tạo nền tảng cho việc bồi dưỡng đạo đức cách mạng đối với đảng viên hiện nay.
Bốn là, tăng cường lãnh đạo, quản lý đảng viên.
Lãnh đạo, quản lý đảng viên là công tác quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Đảng. Quản lý đảng viên phải tiến hành thường xuyên, chặt chẽ, và toàn diện, phải quản lý về mọi mặt, từ phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống đến trình độ năng lực, sức khỏe của đảng viên. Quản lý tốt là cơ sở để giáo dục, rèn luyện đảng viên, sàng lọc đảng viên, từ đó phát hiện, giới thiệu nguồn cán bộ cho Đảng. Tuy nhiên, việc quản lý phải bám sát các nguyên tắc, quy định về quản lý đảng viên của Đảng, đó là kết hợp chặt chẽ giữa việc quản lý của tổ chức với việc tự quản lý của đảng viên, giữa quản lý của chi bộ với quản lý của tổ chức đảng cấp trên, giữa quản lý trong nội bộ Đảng với việc quản lý, giám sát của quần chúng...
Năm là, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với đảng viên.
Sự giám sát của nhân dân đối với đảng viên là không thể thiếu. Bản chất và bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn của mỗi đảng viên đều được thể hiện trong quá trình công tác, trong giải quyết các vấn đề cụ thể và trong sinh hoạt hằng ngày ở nơi cư trú. Do vậy, để làm tốt công tác quản lý đảng viên ở cả nơi làm việc và nơi cư trú phải thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Quy định số 76-QĐ/TW, ngày 15-6-2000, của Bộ Chính trị, về “Đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”. Chi bộ nơi đảng viên công tác phải thường xuyên giáo dục, kiểm tra đảng viên về đạo đức, lối sống, có trách nhiệm quản lý toàn diện đảng viên về lập trường, tư tưởng, ý thức tổ chức kỷ luật và phong cách. Chi bộ nơi đảng viên công tác cần kịp thời nắm bắt các thông tin liên quan đến phẩm chất đạo đức của đảng viên thể hiện trong mối quan hệ giữa đảng viên với gia đình, với nhân dân nơi cư trú, với việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước tại địa phương.
Thông qua sự giám sát của nhân dân, mỗi đảng viên có ý thức tu dưỡng, rèn luyện tác phong, nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc, giữ gìn lối sống lành mạnh, có văn hóa. Thực tế ở nhiều nơi cho thấy, nơi nào Quy chế Dân chủ ở cơ sở được phát huy, công tác kiểm tra, giám sát của nhân dân được coi trọng thì nơi đó tổ chức Đảng, đảng viên lãnh đạo và hoạt động có hiệu quả.
Sáu là, đổi mới công tác đánh giá, xếp loại đảng viên.
Tư duy đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên cần được đổi mới theo hướng vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng viên. Trước hết, để phù hợp với tình hình hiện nay, cần xây dựng các tiêu chí cụ thể để đáng giá, xếp loại đảng viên, trong đó, coi trọng việc đánh giá bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn của đảng viên. Bên cạnh đó, khắc phục cách đánh giá đảng viên thiên về tích cực, ưu điểm, né tránh các hạn chế, khuyết điểm, hoặc đánh giá chung chung, mang tính hình thức./.
---------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 15, tr. 113
(2),(3),(4),(5),(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 187-188, tr. 80, tr. 205, tr.199, tr. 201-202
(6) Hồ Chí Minh, Sđd, t. 9, tr. 293
Quan hệ thương mại Việt - Trung: Bối cảnh và những vấn đề đặt ra  (19/08/2016)
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hòa Bình  (18/08/2016)
Thúc đẩy hợp tác giữa tỉnh Nghệ An với các tỉnh của Lào  (18/08/2016)
Đảng bộ Ngoài nước nâng cao chất lượng vận động quần chúng  (18/08/2016)
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu chủ động ứng phó với bão số 3  (18/08/2016)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển