Xây dựng Đảng về đạo đức

Hoàng Chí Bảo GS, TS, Hội đồng Lý luận Trung ương
15:29, ngày 20-11-2015

TCCS - Để tăng cường vai trò lãnh đạo của mình thì đảng cầm quyền phải tiêu biểu về trí tuệ và đạo đức như Hồ Chủ tịch đã nói “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Do đó, xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền, phải chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức. Đây là điểm nhấn, điểm mới trong nội dung xây dựng Đảng, là sự bổ sung hết sức cần thiết trong đổi mới tư duy về xây dựng Đảng hiện nay.

Đổi mới tư duy về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay

Trong những năm gần đây, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bản lĩnh cầm quyền của Đảng trở nên vô cùng hệ trọng, cấp thiết và bức xúc. Trong các văn kiện Đại hội và các nghị quyết hội nghị Trung ương thời kỳ đổi mới, Đảng luôn nhấn mạnh, xây dựng Đảng là then chốt, cùng với phát triển kinh tế là trung tâm, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.

Đảng cầm quyền khởi xướng đường lối đổi mới, lãnh đạo và tổ chức thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta là lực lượng tiên phong, tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội.

Từ thực tiễn, chúng ta ý thức đầy đủ và sâu sắc hơn việc xây dựng Đảng phải gắn liền với đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Đó là việc làm thường xuyên, không chỉ trong nội bộ Đảng mà còn có sự tham gia, đóng góp của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng. Chỉ dẫn quan trọng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta thấm nhuần và đang nỗ lực vận dụng trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là từ khi Đảng ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

Nhìn lại thực tiễn gần 30 năm đổi mới có thể nhận thấy những bước tiến trong đổi mới tư duy về xây dựng Đảng và những vấn đề đang đặt ra cần phải nỗ lực giải quyết trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Có hai điểm nổi bật về trách nhiệm của Đảng và yêu cầu về xây dựng Đảng.

Thứ nhất, Đảng đi tiên phong trong đổi mới. Đảng tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội. Điều này không chỉ thể hiện vai trò, trách nhiệm của Đảng mà còn là sự gương mẫu của Đảng, của tổ chức đảng các cấp và của mỗi cán bộ đảng viên. Trách nhiệm chính trị và sự gương mẫu đạo đức của Đảng gắn liền mật thiết với nhau.

Thứ hai, phải làm cho Đảng ngang tầm với nhiệm vụ. Giữ trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội trên tư cách đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền như Đảng ta, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải có nội dung toàn diện, phải ra sức đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực và bản lĩnh cầm quyền, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.

Đổi mới tư duy về xây dựng Đảng là tiền đề nhận thức lý luận để giải quyết các vấn đề có tầm quan trọng chiến lược nêu trên. Đây là điểm mấu chốt trong đổi mới tư duy xã hội, trong việc triển khai toàn diện các lĩnh vực của đời sống trong tiến trình đổi mới ở nước ta.

Có hàng loạt nhân tố tác động đến đổi mới tư duy về xây dựng Đảng, song nổi bật là những nhân tố sau đây:

- Trước yêu cầu giải phóng lực lượng sản xuất và giải phóng mọi tiềm năng của xã hội, nước ta phải phát triển sản xuất hàng hóa, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tuân thủ quy luật giá trị, áp dụng cơ chế thị trường và giờ đây là phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự thay đổi căn bản mô hình kinh tế và quản lý kinh tế. Đảng đã nhấn mạnh phải dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, phương thức phân phối bình quân, phong cách quản lý theo kiểu hành chính - mệnh lệnh, kìm hãm sự phát triển. Phải đẩy mạnh dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống. Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hóa xã hội là tác nhân kinh tế - xã hội nổi bật, tạo động lực cho nước ta ra khỏi sự trì trệ kéo dài, mở đường cho sự phát triển năng động, sáng tạo. Tác nhân ấy đòi hỏi Đảng phải thay đổi tư duy về chính mình, phải thích ứng với tình hình mới, yêu cầu mới, hơn nữa phải chủ động vượt lên chính mình, có đủ năng lực để lãnh đạo đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hóa.

- Đổi mới không chỉ thay đổi mô hình kinh tế mà còn thay đổi mô hình phát triển xã hội nói chung. Phải vượt qua tư duy cũ về phát triển - kiểu phát triển tuyến tính, đơn trị, chỉ phát triển quan hệ hợp tác trong một hệ thống (xã hội chủ nghĩa), theo mô hình Xô-viết, tự tách mình khỏi phần còn lại rộng lớn của thế giới, không có quan hệ với phương Tây tư bản chủ nghĩa. Trước biến động dữ dội của thế giới toàn cầu hóa, với cách mạng khoa học - công nghệ và sự bùng nổ thông tin và công nghệ thông tin, kiểu phát triển “khép kín”, “ốc đảo” đó đã tỏ ra lỗi thời, hoàn toàn mất tính triển vọng. Do đó, đổi mới tất yếu phải gắn liền với hội nhập, hợp tác song phương và đa phương để phát triển.

Như vậy, đổi mới và hội nhập quốc tế Việt Nam, là bạn của tất cả các nước, không biệt phái và giáo điều, không để sự khác biệt ý thức hệ cản trở quá trình hợp tác, hiểu rõ hợp tác đi liền với cạnh tranh và đấu tranh, thúc đẩy phát triển trong quá trình hội nhập nhưng không tự đánh mất mình, vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa để kiên định lý tưởng, mục tiêu đã lựa chọn, kiên định con đường phát triển xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Đây là một trong những thử thách lớn nhất đối với năng lực lãnh đạo và bản lĩnh cầm quyền của Đảng ta trong bối cảnh mới của thời đại và thế giới đương đại.

Đây là tác nhân chính trị - xã hội và rộng hơn, sâu hơn là tác nhân văn hóa đối với đổi mới tư duy xây dựng Đảng của Đảng ta. Câu hỏi lớn đặt ra là, Đảng phải lãnh đạo và cầm quyền như thế nào trong điều kiện đất nước hội nhập, hợp tác đi sóng đôi với cạnh tranh và đấu tranh quyết liệt, phát triển phải đủ sức vượt qua các thách thức, nguy cơ phản phát triển. Muốn cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ, Đảng phải nỗ lực vượt bậc để phát triển tiềm lực trí tuệ, tư tưởng của mình.

- Sau sự biến chính trị làm đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, làm tan rã hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào cuộc khủng hoảng gay gắt, phong trào cách mạng thế giới thoái trào, dù là tạm thời nhưng đó là một thử thách nghiệt ngã đối với các nước xã hội chủ nghĩa, đối với các đảng cộng sản cầm quyền, trong đó có Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Làm gì và làm như thế nào để phục hồi các giá trị của chủ nghĩa xã hội và phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội hiện đại - một “Chủ nghĩa xã hội hiện thực mới” sẽ định hình trong đổi mới, hội nhập quốc tế, để phát triển bền vững và hiện đại hóa”? Câu hỏi lớn đó đang đặt ra như một tác nhân lý luận đòi hỏi Đảng phải đem lại câu trả lời xác thực và có sức thuyết phục. Do đó, hơn lúc nào hết, Đảng Cộng sản lãnh đạo và cầm quyền như Đảng ta phải là lực lượng tiên phong đột phá về lý luận. Phát triển nhanh hay chậm, đúng hay sai, giữ được định hướng hay chệch hướng, vượt qua hay không vượt qua được “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như một đòn phản kích chiến lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm vào chủ nghĩa xã hội, rốt cuộc, sự nghiệp lâu dài của đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ thành hay bại, trước hết tùy thuộc ở trình độ phát triển lý luận của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác lý luận như thế nào trong tình hình mới - đó phải là vấn đề hàng đầu, nằm ở trung tâm chú ý của lãnh đạo cấp cao, cấp chiến lược của Đảng. Liên quan trực tiếp tới vấn đề hệ trọng này là quan hệ giữa Đảng với giới trí thức, là phương pháp và phong cách lãnh đạo trí thức của Đảng trên tinh thần Đổi mới - Dân chủ - Khoa học - Nhân văn để Sáng tạo và Phát triển.

- Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay của thế giới đương đại, vấn đề lợi ích dân tộc, giữ vững nền độc lập dân tộc, chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia - dân tộc đang nổi lên như một đòi hỏi bức xúc. Cần phải phát huy ý thức dân tộc, sức mạnh của cộng đồng dân tộc thống nhất, động lực của lòng yêu nước để bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước cường thịnh vì cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Đó là chủ nghĩa dân tộc chân chính, nuôi dưỡng và phát triển các giá trị, các nguồn lực nội sinh của phát triển bền vững.

Nó đối lập với mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bá quyền, tiềm ẩn những xung đột, chiến tranh, đe dọa bạo lực dẫn tới phản phát triển. Đảng lãnh đạo và cầm quyền vì nhân dân, trong tình hình bối cảnh đó càng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi phát triển đất nước là lợi ích cốt lõi của quốc gia - dân tộc. Đảng lãnh đạo, cầm quyền sao cho Đảng thể hiện và kết tinh được tinh hoa của dân tộc, tạo được sự thống nhất và đồng thuận cao nhất giữa Đảng với nhân dân và dân tộc. Đó là bảo đảm chắc chắn nhất cho sự bền vững của chế độ, là sức mạnh tự bảo vệ trước mọi hiểm nguy và thử thách.

Công cuộc đổi mới ở nước ta đã khởi động và phát triển tốt đẹp bởi sự kết hợp giữa Ý Đảng với Lòng Dân và trở thành Phép Nước. Trong thời điểm phát triển bước ngoặt hiện nay, sức mạnh từ sự kết hợp ấy càng phải được phát huy và nhân lên gấp bội, mà tiêu điểm là niềm tin của nhân dân với Đảng, là Đảng sẽ làm hết sức mình để thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nói theo cách nói của ông cha ta là “quốc thái dân an”, “giang sơn xã tắc bền vững”, nhân hòa đủ sức kết nối mọi người đồng tâm, hiệp lực, đồng ý, đồng chí, đồng hành để phát triển. Tạo dựng sức mạnh ấy, hơn bao giờ hết, Đảng phải bằng năng lực và phẩm giá của mình để quy tụ và phát huy được sức mạnh, tài trí của nhân dân, nâng cao vị thế dân tộc, tiềm lực quốc gia. Đảng mạnh từ cội nguồn sức mạnh của lòng dân, chế độ bền vững do Đảng lãnh đạo cũng từ sự bền vững của khí phách, bản lĩnh dân tộc. Xây dựng Đảng lúc này phải gắn liền với phát triển sức dân, thúc đẩy sự chấn hưng dân tộc. Tầm nhìn chiến lược ấy có trong tư duy, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà Người đã chỉ dẫn thấu đáo trong Di chúc từ 50 năm về trước, trong lần khởi thảo đầu tiên (tháng 5-1965) đến lần sửa chữa cuối cùng (tháng 5-1969). Di chúc đã trở thành Quốc Bảo. Di chúc cũng là Pháp Bảo để xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

- Ngoài những nhân tố đã nêu trên, còn phải đề cập tới một nhân tố quan trọng khác tác động tới đổi mới tư duy xây dựng Đảng của Đảng ta. Đây là nhân tố bên trong, thuộc về chính bản thân Đảng. Đảng đã cầm quyền 70 năm nay, từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trải qua lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh và sự tỏa sáng của đạo đức, nhân cách của Người, với sức mạnh từ sự tin yêu, ủng hộ hết lòng của nhân dân, với sự khai sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đỉnh cao của trí tuệ loài người và sự thức tỉnh của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới do cuộc cách mạng vĩ đại đó sinh thành, Đảng ta đã thực sự là “con nòi của giai cấp công nhân”, “lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng” (Lời Hồ Chí Minh), là một Đảng cách mạng chân chính mà lý do duy nhất để Đảng tồn tại, chỉ vì dân, phấn đấu hy sinh cũng chỉ vì nhân dân, vì Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của Tổ quốc, dân tộc và nhân dân.

Song trong đổi mới đã gần 30 năm nay, nền kinh tế thị trường đã tác động vào đời sống xã hội, vào đời sống của Đảng, của đội ngũ cán bộ đảng viên, cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Tác động ấy đi liền với những phát sinh khi Đảng đã cầm quyền. Tiền bạc, chức quyền, danh lợi cùng với chủ nghĩa cá nhân đã xâm nhập, thẩm thấu vào các quan hệ giữa con người với tổ chức. Đảng ở trong xã hội, Đảng cũng như con người, là một cơ thể sống, như một lẽ tự nhiên, Đảng cũng chịu ảnh hưởng từ những tác động đó. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đã bộc lộ ra một cách nghiêm trọng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả cấp cao. Quan liêu, xa dân, thói vô trách nhiệm, thậm chí cả thói vô cảm đã ở mức độ nặng nề. Tham nhũng vừa là nguy cơ, vừa là quốc nạn bởi nó đã trở nên phổ biến, ở mọi nơi, với những mức độ, hậu quả khác nhau. Đây là nguyên nhân chủ yếu làm giảm sút nghiêm trọng niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng. Thực trạng này đang đe dọa tới sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ như Đảng đã cảnh báo. Đây là vấn đề của mọi vấn đề cấp bách trong Đảng hiện nay. Đổi mới tư duy về xây dựng Đảng phải đặc biệt chú ý tới tình huống này.

Suy thoái đạo đức, lối sống tất yếu đi liền với những biến dạng (tha hóa) về động cơ chính trị, về lý tưởng cách mạng. Nó cũng đi liền với suy thoái tư tưởng, chính trị, sự yếu kém, rệu rã về tổ chức. Cầm quyền mà xa dân cũng tất yếu dẫn đến sự suy thoái như vậy. Bài học phải trả giá đau đớn từ Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là bài học về sự suy thoái đạo đức, sự phát triển yếu ớt của dân chủ, sự thiếu vắng trách nhiệm, lảng tránh trách nhiệm khi cầm quyền.

Thực tế và kinh nghiệm đã cho thấy, không một đảng cầm quyền nào có thể đứng vững được khi cơ sở xã hội (nhân dân) suy yếu, mất lòng dân, khi suy đồi về đạo đức, lối sống diễn ra trong đảng, nhất là ở những cơ quan lãnh đạo và người lãnh đạo.

Suy thoái về đạo đức, lối sống làm mất đi khả năng miễn dịch trước những độc tố mà kẻ thù tiêm nhiễm vào trong lĩnh vực tư tưởng, chính trị và tổ chức. Nguyễn Ái Quốc khi viết “Đường cách mệnh” (năm 1927), từ lúc Đảng còn chưa ra đời, đã dự cảm sâu xa rằng, đảng cách mạng, người cách mạng “phải giữ chủ nghĩa cho vững”, lại phải “ít lòng ham muốn về vật chất”. Không có hai bảo đảm ấy, người cách mạng sẽ biến chất, hư hỏng và đảng cách mạng sẽ thoái hóa, thất bại, tan rã. Vào cuối đời, Người còn căn dặn “phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân và ra sức nâng cao đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính”... “Phải giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, từ Trung ương tới chi bộ như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Sự đổ vỡ xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, các đảng cộng sản ở đó mất vai trò cầm quyền, ngoài nguyên nhân sai lầm về đường lối và mất phương hướng chính trị, còn có nguyên nhân sâu xa bởi tự đánh mất lòng tin và sự ủng hộ của nhân dân, bởi sự suy đồi đạo đức, lối sống, nhân cách khi cầm quyền, ở những người cầm quyền. Do đó, xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền, phải chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức. Đây là điểm nhấn, điểm mới trong nội dung xây dựng Đảng, là sự bổ sung hết sức cần thiết trong đổi mới tư duy về xây dựng Đảng hiện nay.

Trong một thời gian dài, lý luận xây dựng Đảng đã không quan tâm đầy đủ tới vấn đề cốt tử này. Chúng ta thường chỉ nhấn mạnh xây dựng Đảng trên ba mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đó chỉ là điều kiện cần chứ không đủ. Sẽ là không đầy đủ, là thiếu hụt nếu không tính đến hoặc xem nhẹ vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức. Khi Đảng cầm quyền, lại cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường, đạo đức trong Đảng là cả một tình huống. Đồng nhất một cách giản đơn xây dựng Đảng về tư tưởng với xây dựng Đảng về đạo đức, trên thực tế đã dẫn đến xem nhẹ vấn đề đạo đức trong Đảng. Đó là hạn chế lớn cần phải khắc phục. Phải hết sức coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức, từ đạo đức của người đảng viên đến đạo đức của người lãnh đạo, của cơ quan lãnh đạo. Một khi đạo đức trong Đảng yếu kém sẽ tác động nguy hại tới chính trị, tư tưởng, tổ chức của Đảng và cũng dẫn đến suy đồi đạo đức trong xã hội. Đảng phải chịu trách nhiệm về điều đó.

Xây dựng Đảng về đạo đức - quan niệm, nội dung và giải pháp

Xây dựng Đảng về đạo đức vừa là một phương diện hợp thành của nội dung xây dựng Đảng, vừa là bảo đảm đạo đức cho xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Xây dựng Đảng về đạo đức là cốt lõi của xây dựng Đảng về văn hóa, trong đó nổi bật là văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa ứng xử trong Đảng Cộng sản cầm quyền.

Đạo đức cùng với năng lực tạo nên nhân cách của mỗi người, của mỗi cán bộ đảng viên. Trong mỗi tổ chức đảng và trong toàn Đảng, nhân cách của từng đảng viên, của cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy phản ánh diện mạo đạo đức, nhân cách của Đảng.

Khi xác định “Đảng là đạo đức, là văn minh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ tầm quan trọng của đạo đức, coi đó là đặc trưng bản chất của một chính đảng cách mạng. Người còn nhấn mạnh, “chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết, thanh khiết từ việc nhỏ tới việc lớn”. Như vậy, Người đã đưa yếu tố đạo đức vào trong chính trị, quan niệm chính trị gắn liền với đạo đức và văn hóa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc rèn luyện đạo đức, lối sống của đảng viên, của đội ngũ cán bộ nói chung. Với mỗi người, phải rèn đủ cả bốn đức: cần - kiệm - liêm - chính, phải đủ cả bốn đức mới là người hoàn toàn, thiếu một đức thì không thành người. Nếu đào tạo cán bộ là “công việc gốc” của Đảng thì việc giáo dục, rèn luyện cán bộ hằng ngày, phải lấy đức làm gốc, tài là quan trọng, có đức phải có tài nhưng đức là gốc, là hàng đầu, tài phải được bảo đảm bởi đạo đức.

Ngay trong phương châm hành động, thực hành lối sống và thái độ ứng xử, Người cũng thể hiện rõ yêu cầu về đạo đức, đó là phải trung thực, khiêm tốn, giản dị, trách nhiệm, có lòng chân thành, có đức bao dung, có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đó là đạo đức. Phải nói ít làm nhiều, lời nói đi đôi với việc làm, đã nói thì phải làm, không được làm gì tổn hại tới uy tín, thanh danh của Đảng, tới lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân. Phải biết trọng liêm sỉ, danh dự, khí tiết, trong sáng, chính trực, không có gì mờ ám, khuất tất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao sự gương mẫu, tính tiên phong “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. “Một tấm gương sống còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn”. Người căn dặn cán bộ đảng viên, nhất là thanh niên tuổi trẻ, phải cần cù và chịu khó, siêng năng và tiết kiệm, chỉ có một điều ham muốn, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân “ham học, ham làm, ham tiến bộ”, không ham tiền tài, không ham danh vọng, địa vị, quyền chức. Những cái đó, nếu không làm chủ được, dễ rơi vào hư hỏng, thậm chí tội lỗi. Cho nên, người có đạo đức gương mẫu là người có đức hy sinh, có lòng vị tha, nhân ái, không vị kỷ, vụ lợi, vượt qua những cám dỗ tầm thường cá nhân chủ nghĩa.

Người tự mình rèn luyện, nêu gương thực hành đạo đức theo những chuẩn mực đó. Đạo đức của Đảng và trong Đảng là đạo đức cách mạng, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân và phải suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân, “giặc nội xâm” ở trong lòng, chú trọng phát triển mọi khả năng sáng tạo của cá nhân, quan tâm tới lợi ích cá nhân nhưng kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Đó là những chỉ dẫn thiết thực mà sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đối với Đảng, với các cấp ủy đảng, Người đòi hỏi phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện đảng viên về đạo đức, đồng thời phải thường xuyên nêu cao tinh thần đoàn kết, thực hành dân chủ, ý thức tự phê bình và phê bình, gột rửa, tẩy bỏ những cái xấu xa, hư hỏng, lỗi thời, phấn đấu cho những cái mới, cái tiến bộ và phát triển. Trong một đoạn ngắn nói về Đảng cầm quyền ở Di chúc, Người bốn lần nhắc tới chữ “Thật”(1) làm nổi bật yêu cầu đạo đức đối với Đảng cầm quyền.

Trong “Tư cách của người cách mệnh” ở tác phẩm Đường cách mệnh và trong “Mười hai điều xây dựng Đảng cách mạng chân chính” ở tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), Người cũng đặc biệt nhấn mạnh tới đạo đức. Trong “Sáu lời dạy công an” (năm 1948), đạo đức được đặt lên hàng đầu, mọi nhiệm vụ, việc làm, mọi quan hệ ứng xử... đều toát lên yêu cầu đạo đức.

Xây đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong phương châm xây đi liền với chống, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ rõ sự dày công trong xây dựng Đảng về đạo đức. Theo Người, lãnh đạo bằng sự gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất, dựa trên thuyết phục và nêu gương.

Đảng lãnh đạo bằng khoa học, dân chủ, nêu cao pháp luật, kỷ luật, kỷ cương chưa đủ, Đảng còn phải biết lãnh đạo bằng sự gương mẫu, nhất là gương mẫu về đạo đức, trách nhiệm, lối sống, ứng xử và cư xử hằng ngày với quần chúng.

Đó là cơ sở lý luận của xây dựng Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, trong lý luận xây dựng Đảng, nhất là khi Đảng cầm quyền, cần phải làm rõ vai trò của đạo đức đối với chính trị, tư tưởng và tổ chức cũng như mối quan hệ qua lại giữa các mặt trong nội dung xây dựng Đảng. Đạo đức làm cho chính trị, nhất là quyền lực thấm nhuần tinh thần nhân văn, bảo đảm cho chính trị và quyền lực chính trị không bị tha hóa, nhất là khi đi vào kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Đạo đức làm cho tư tưởng (mà hạt nhân là lý luận) trở nên trong sáng, khách quan, nhất quán, “quang minh chính đại”, không có gì mờ ám, khuất tất bởi sự thao túng của lợi ích nhóm. Chân lý, tức là tư tưởng, lý luận còn phải gắn liền với đạo lý. Ở đây, đạo đức là thước đo, là vật chuẩn bảo đảm cho tính đúng đắn, hữu ích, hữu dụng của chân lý, hướng vào mục đích vì nhân dân và phát huy được hiệu quả, ấy là niềm tin, đức tin của nhân dân, của cả cộng đồng xã hội hướng vào Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ thực tiễn đấu tranh, từ những trải nghiệm và tích lũy kinh nghiệm, vốn sống đã nêu lên một nhận xét, tổng kết rằng, người có đạo đức thường dễ tiếp thu chân lý hơn. Đây là tư tưởng ở bậc minh triết, ở tầm minh triết. Đạo đức yếu kém, suy đồi dễ dẫn tư tưởng tới chủ nghĩa cơ hội thực dụng, dễ dao động chao đảo, từ bỏ nguyên tắc, phai nhạt lý tưởng, tự đánh mất hoặc phản bội lại niềm tin, đức tin của chính mình đối với lý tưởng, mục tiêu của Đảng, của cách mạng. Đạo đức củng cố sức mạnh của tổ chức, giữ cho tổ chức sự thống nhất ý chí và hành động, trong sạch và vững mạnh. Tình trạng mất đoàn kết, chia rẽ, bè phái, cục bộ, vi phạm dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, kèn cựa địa vị, thói hám danh lợi chức quyền làm suy yếu tổ chức, làm tổn thương đến quan hệ đồng chí trong Đảng, uy tín thanh danh của Đảng trong con mắt đánh giá của người dân... cũng chỉ vì đạo đức trong Đảng bị suy giảm.

Không có bảo đảm đạo đức thì tổ chức đảng không thể trong sạch, vững mạnh, không có sức chiến đấu. Để xảy ra tình trạng đó, tư tưởng chỉ còn là hình thức hoặc bị hình thức hóa. Chính trị dù có đúng đắn cũng không có sức mạnh để thực hiện. Trong những tình huống phức tạp, không có những giá trị đạo đức ràng buộc, chính trị sẽ mất phương hướng và sai lầm.

Nhìn vào sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô hơn 20 năm về trước, với sự xuất hiện hai tình huống nguy hiểm: khoảng trống ý thức hệ do hỗn loạn về tư tưởng và khoảng trống quyền lực do từ bỏ nguyên tắc và mất khả năng chiến đấu càng cho thấy rõ sự yếu kém và trống vắng đạo đức đã dẫn đến hậu quả tự hủy hoại như thế nào đối với một chính đảng cách mạng.

Chỉ dẫn của V.I. Lê-nin, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của thời đại đã không được thường xuyên rèn luyện, đã xuất hiện sự biến dạng, tha hóa dẫn đến kết cục đổ vỡ, bởi đạo đức trong Đảng, nhất là đạo đức ở cơ quan lãnh đạo đầu não, đã không còn tác dụng như “một con đập ngăn thác lũ”, như một cái “phanh hãm” đối với những cái sai, cái xấu, cái ác tràn vào trong tổ chức và trong các mối quan hệ con người.

Xa dân, quan liêu, tham nhũng và những sự suy đồi khác không được kiểm soát, không bị lên án, chậm phát hiện, chậm sửa chữa đến mức không còn khả năng để sửa chữa nữa là bài học phản diện về sự đổ vỡ thể chế và chế độ, về sự tan rã của các đảng cộng sản cầm quyền ở Liên Xô và Đông Âu, cho đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa cảnh báo.

Rõ ràng, xây dựng Đảng về đạo đức, nhất là khi Đảng đã cầm quyền chẳng những cần thiết mà còn phải thường xuyên, lâu dài, hơn nữa phải đặt lên hàng đầu. Nó quyết định sức sống, sức chiến đấu của Đảng. Không có bảo đảm đạo đức thì mọi nỗ lực xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức không thể thành công, không thể phát huy được tác dụng, ảnh hưởng của nó trong Đảng và trong xã hội.

Lời căn dặn của V.I. Lê-nin, cách mạng phải có sức mạnh tự bảo vệ, lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng lấy sức mạnh trong lòng dân xét đến cùng có được thực hiện hay không, tùy thuộc vào đạo đức của Đảng, vào chất lượng, hiệu quả xây dựng Đảng về đạo đức, gắn liền làm một với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức cần được nhận thức và thực hiện ra sao? Bằng cách nào? Đâu là vấn đề xung yếu? Phải có những giải pháp và điều kiện như thế nào mới giải quyết được?... Hàng loạt vấn đề như thế đang đặt ra trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Chúng ta nhấn mạnh những điểm dưới đây:

Thứ nhất, đạo đức trong Đảng là đạo đức cách mạng, xoay quanh những chuẩn mực giá trị: Cần - Kiệm - Liêm - Chính và những nguyên tắc sống: chí công vô tư. Đạo đức đó đối lập với chủ nghĩa cá nhân, cho nên muốn xây dựng đạo đức cách mạng thì phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi phải “quét sạch”, phải “tẩy bỏ”, phải “đánh bại giặc nội xâm”, “căn bệnh gốc, bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh con, xấu xa, hư hỏng, lỗi thời”. Người nhấn mạnh, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải đánh bại, phải chiến thắng chủ nghĩa cá nhân.

Xây dựng Đảng về đạo đức với những chuẩn mực giá trị đạo đức cách mạng đòi hỏi đạo đức trong Đảng là đạo đức hành động, hướng tới nhân dân và vì dân, vì thắng lợi của đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì lý tưởng và mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với Đảng, xây dựng Đảng về đạo đức để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, để hình tượng Đảng thực sự xứng đáng trong niềm tin cậy và sự mong đợi của nhân dân. Có trong sạch thì mới vững mạnh. Đảng mạnh và vững mạnh, phải được đo lường bằng nhiều tiêu chí, trong đó, tiêu chí đạo đức phải đặt lên hàng đầu và thấm nhuần trong những tiêu chí khác: chính trị đúng đắn, sáng suốt, kiên định; tư tưởng khoa học, tiên tiến, hiện đại; tổ chức thống nhất, chặt chẽ, đề cao dân chủ - pháp quyền, luật Đảng (Điều lệ), luật Nước nghiêm minh, gắn bó mật thiết với nhân dân...

Thứ hai, xây dựng Đảng về đạo đức phải chú trọng sự kết hợp giữa giáo dục nhận thức với rèn luyện lập trường quan điểm, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng, hình thành niềm tin khoa học và thực hành đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên, trong từng tổ chức đảng và trong toàn Đảng. Để sức mạnh đạo đức cùng với sức mạnh của luật pháp tỏ rõ tác dụng, hiệu lực trong chống tham nhũng, cần phải thực hiện giáo dục về nhân phẩm, về liêm sỉ trong Đảng, trong Nhà nước và xã hội. Đặc biệt đề cao trách nhiệm chính trị và trách nhiệm đạo đức của cấp ủy, của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và đoàn thể. Xây dựng Đảng về đạo đức gắn liền với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức thông qua thực hành đạo đức, thực hành dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình, thường xuyên lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân về xây dựng Đảng, thực hiện sự giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với tổ chức đảng và các cán bộ đảng viên. Thực hiện công khai, minh bạch thông tin và chế độ trách nhiệm trong Đảng, trong các cơ quan công quyền, trong các tổ chức đoàn thể để dân biết, dân bàn, dân kiểm tra. Đó là gắn chặt các nội dung xây dựng Đảng, trong đó có xây dựng Đảng về đạo đức với thực hiện quyền giám sát, phản biện, quyền và trách nhiệm kiểm soát quyền lực từ phía xã hội và người dân.

Việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, việc thực hiện Điều lệ Đảng và các quy định trong thể chế Đảng không chỉ có ý nghĩa pháp lý - chính trị mà còn chứa đựng những nội dung đạo đức và văn hóa. Cần phải làm cho toàn Đảng nhận thức đúng và tự giác thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ đó.

Thứ ba, xây dựng Đảng về đạo đức phải thường xuyên, phải quy định thành trách nhiệm của cấp ủy đảng các cấp, tạo chuyển biến thực sự trong Đảng, đủ sức phòng ngừa, ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng đã chỉ ra. Tiếp tục thực hiện và thực hiện lâu dài trong Đảng Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng cũng như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Thứ tư, xây dựng Đảng về đạo đức phải chú trọng giải quyết một cách thực sự và có hiệu quả thực tế những vấn đề xung yếu, những trọng điểm về đối tượng, từ con người đến tổ chức. Đó là:

- Giảm thiểu và từng bước đẩy lùi tệ quan liêu, thói vô trách nhiệm, bệnh vô cảm, nhất là lãng phí và tham nhũng, từ tham nhũng kinh tế đến tham nhũng trong chính sách và chính trị.

- Kiểm soát và xử lý những bất minh, bất chính về lợi ích và thu nhập, liên quan tới lợi ích nhóm, gây tổn hại cho xã hội cả về kinh tế và chính trị.

- Khôi phục và củng cố niềm tin của nhân dân, của đảng viên đối với Đảng bằng sự chuyển biến tích cực, thực sự trong Đảng được xã hội và nhân dân thừa nhận.

Đạo đức trong Đảng đang là huyết mạch sinh mệnh của Đảng. Nó hệ trọng với từng đảng viên, càng đặc biệt hệ trọng với các đảng viên giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt các cấp. Cấp chiến lược đầu não phải tỏ rõ tấm gương đạo đức trong sáng, công tâm, tận tụy, hy sinh, là lực đẩy mạnh mẽ về tinh thần, đạo đức trong toàn Đảng và trong xã hội.

Thứ năm, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân phải trở thành một nhu cầu văn hóa, phải có nhận thức đúng, toàn diện về di sản Hồ Chí Minh gắn liền tư tưởng với đạo đức và phong cách của Người, chú trọng thực hành, đội ngũ cán bộ chủ chốt phải nêu gương thực hành đạo đức, có tác dụng kích hoạt, thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người.

Cần phải tìm tòi những biện pháp, những cách làm công phu và sáng tạo, phát huy tác dụng những sáng kiến, những gương điển hình từ địa phương và cơ sở để nâng cao hiệu quả thực chất của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đây là việc làm thiết thực để giáo dục và thực hành đạo đức trong Đảng, trong nhân dân, tạo cơ sở, nền tảng để xây dựng văn hóa trong Đảng, hướng trực tiếp vào văn hóa đạo đức, văn hóa ứng xử, văn hóa chính trị theo các đặc trưng của văn hóa, các giá trị nhân cách của con người Việt Nam. Trong Di sản đạo đức Hồ Chí Minh, giá trị lý luận - thực tiễn quý báu là ở chỗ, Người đã chỉ dẫn cả nội dung và phương pháp thực hành đạo đức cách mạng cho từng đối tượng, từ đảng viên tới người dân, từ thanh, thiếu niên tới phụ nữ, từ bộ đội đến công an, từ trí thức đến nhà báo, văn nghệ sĩ, từ nhà ngoại giao đến nhà lãnh đạo, quản lý, cho đến đạo đức trong lao động, trong ứng xử, trong công tác và học tập, Người còn quan tâm đến đạo đức của người theo tôn giáo, sao cho “tốt đời đẹp đạo”, đạo pháp - dân tộc đồng hành cùng chủ nghĩa xã hội. Lấy việc giáo dục và thực hành đạo đức trong Đảng làm khâu then chốt để thúc đẩy cả xã hội quan tâm đến đạo đức, ra sức khắc phục tình trạng suy đồi đạo đức đang diễn ra trong xã hội hiện nay, làm nên sự nghiệp chấn hưng đạo đức, chấn hưng giáo dục để nuôi dưỡng và phát huy nguồn trữ năng tinh thần của xã hội ta.

Sức mạnh đạo đức, trước hết là đạo đức trong Đảng là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm đủ sức chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ đảng viên của chúng ta.

Một vài đề xuất kiến nghị

Đại hội XII của Đảng đang đến gần. Để đóng góp vào Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI trình Đại hội, từ yêu cầu xây dựng Đảng về đạo đức, cần bổ sung, nhấn mạnh vào nội dung xây dựng Đảng những điểm dưới đây:

- Đại hội sẽ ghi vào Nghị quyết việc mở rộng nội dung xây dựng Đảng không chỉ về chính trị, tư tưởng, tổ chức mà còn đặc biệt chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức, lối sống, coi đó là nền tảng để xây dựng văn hóa trong Đảng Cộng sản cầm quyền.

- Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để làm rõ nội dung của văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa ứng xử trong Đảng, trong Nhà nước và trong hệ thống chính trị, trong quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

- Tổ chức giáo dục và thực hành đạo đức sâu rộng, thường xuyên trong toàn Đảng, xác định trách nhiệm của các cấp ủy và bí thư cấp ủy trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.

- Xây dựng và thực hiện trong Đảng và trong xã hội một hệ thống các quy tắc, chuẩn mực đạo đức phù hợp với từng đối tượng, nghề nghiệp, chức trách, cương vị, tiến tới áp dụng bộ luật về đạo đức xã hội làm cơ sở xây dựng đời sống đạo đức, môi trường đạo đức để giáo dục con người, hoàn thiện nhân cách.

- Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước./.

----------------------------------------------

(1) Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.