Đặc xá thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
|
Đồng chí Lê Thế Tiệm, Thứ trưởng Bộ Công an kiểm tra xét đặc xá tại Trại giam số 3,
tháng 12-2004 |
Đặc xá thể hiện sự khoan hồng đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta đối với một số người bị kết án tù nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt. Kể từ ngày thành lập nước năm 1945 đến nay, Nhà nước ta đã thực hiện 40 đợt đặc xá, tha tù trước thời hạn cho hàng chục nghìn người phạm tội. Với sự ra đời của Luật Đặc xá (có hiệu lực từ ngày 1-3-2008), từ nay Nhà nước ta sẽ có cơ sở pháp lý đầy đủ để thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước mình.
Công tác đặc xá đã đem lại những hiệu quả to lớn về chính trị - xã hội, giúp những người phạm tội được tái hòa nhập cộng đồng, tự giác lao động sản xuất, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. Mỗi lần thực hiện đặc xá theo quyết định của Chủ tịch nước đều tạo được dư luận xã hội trong nước và dư luận quốc tế hết sức tốt đẹp.
Thực tiễn cho thấy, đặc xá luôn là một chính sách được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Những năm đầu mới thành lập nước, trong điều kiện chính quyền nhân dân còn rất non trẻ, hệ thống chính sách, pháp luật còn thiếu thốn, sơ khai, các cơ quan tư pháp còn nhỏ bé và thiếu kinh nghiệm, Đảng và Chính phủ lại phải dồn mọi sức lực, trí tuệ lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài bảo vệ chính quyền cách mạng nhưng vẫn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân, tạo mọi điều kiện để những người lầm lạc có điều kiện phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. Ở thời kỳ khó khăn này, diện người được xét đặc xá còn rộng hơn quy định hiện nay, kể cả người bị kết án tử hình cũng được xét ân xá hoặc ân giảm (Sắc lệnh số 04/SL, ngày 28-12-1945 và Sắc lệnh số 136/SL, ngày 15-2-1948 của Hồ Chủ tịch). Trong các năm 1945 đến 1954, định kỳ hàng năm vào các ngày lễ trọng đại của dân tộc, Nhà nước ta đều tổ chức các đợt đặc xá, cá biệt các năm 1945, 1946 và 1954, mỗi năm Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định hai đợt đặc xá.
Chính sách đặc xá trong giai đoạn này cũng có tác dụng tác động lớn đến dư luận xã hội, trước hết là bản thân và gia đình người phạm tội thấy được bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, khác xa với bản chất bóc lột, trấn áp của bộ máy chính quyền thực dân, phong kiến. Người dân hiểu được rằng, các quyền cơ bản của con người được Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố với quốc dân đồng bào và toàn thế giới trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”(1) đã và đang trở thành hiện thực.
Từ năm 1989 đến năm 2007, trước khi có Luật Đặc xá, Nhà nước ta đã thực hiện 11 đợt đặc xá, trong đó có năm thực hiện hai đợt, xét tha trước thời hạn cho gần 100.000 phạm nhân; nhiều nhất là năm 2000 với 23.827 phạm nhân và năm 2005 (hai đợt tháng 2 và tháng 5) với 17.269 phạm nhân; năm ít nhất là 1993, chỉ với 68 người. Tuy ở giai đoạn này, các quy định về ân xá, ân giảm cho người bị kết án tử hình không còn nằm trong nội dung của công tác đặc xá nhưng thực chất vẫn là chính sách khoan hồng thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước, vì vậy nhân dịp Quốc khánh 2-9-2004, có 4 phạm nhân bị kết án tử hình đã được Chủ tịch nước cho ân giảm sau đó được ân xá tha tù. Có thể thấy, giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2007 công tác đặc xá đã đi vào nền nếp và có căn cứ pháp lý rõ ràng hơn, là cơ sở để Quốc hội thông qua đạo luật này vào năm 2007.
Công tác đặc xá ở giai đoạn này cũng đã đem lại hiệu quả to lớn về nhiều mặt, phục vụ công cuộc đổi mới, hội nhập sâu rộng hơn vào đời sống quốc tế của nước ta.
Về chính trị, với việc công khai, minh bạch, dân chủ trong thực hiện các trình tự thủ tục xét đặc xá, mở rộng thông tin cho báo giới trong nước và quốc tế, tổ chức các cuộc hội kiến với các tổ chức nhân quyền quốc tế và các nước có quan tâm đến vấn đề tù nhân cùng với việc cho họ được tham quan, khảo sát tình trạng trại giam chúng ta đã thể hiện cho họ thấy chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước đối với phạm nhân là trước sau như một. Việc thừa nhận chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta của báo giới quốc tế, các nước và các tổ chức nhân quyền thế giới đã góp phần tích cực vào việc chống lại các quan điểm sai trái, bôi nhọ, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền của các trung tâm chiến tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng phương Tây và các thế lực thù địch, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam trên đường hội nhập.
Về xã hội, công tác đặc xá đã tiếp tục góp phần củng cố vững chắc niềm tin của những người phạm tội, gia đình họ và nhân dân vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vững tin vào bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chính sách đặc xá cùng với các chính sách ân xá, ân giảm và miễn, giảm hình phạt tù đối với người phạm tội được thực hiện thường xuyên trong các trại giam đã có tác dụng thúc đẩy phạm nhân vững tâm, ra sức học tập, lao động, phấn đấu cải tạo tốt để được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, sớm trở về đoàn tụ với gia đình và tái hoà nhập cộng đồng. Ngay khi còn đang phải chấp hành bản án ở trong trại, được học tập chính sách khoan hồng của Nhà nước, nhiều phạm nhân đã có nhiều nỗ lực, quyết tâm cải tạo, rũ bỏ quá khứ, gột bỏ tâm lý chống đối để trở thành người lương thiện có ích cho xã hội. Nhiều phạm nhân đã có hành động xuất sắc quên mình bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng và tài sản của nhân dân trong thiên tai, địch hoạ. Điển hình là gương anh Nguyễn Thế Minh, phạm nhân trại giam Thủ Đức (Bộ Công an) đã quên mình, anh dũng hy sinh cứu sống 11 người dân địa phương trong cơn lũ quét vào tháng 7-1999.
Nhìn từ góc độ kinh tế, công tác đặc xá và giảm án, tha trước thời hạn một số lượng không nhỏ phạm nhân hàng năm còn góp phần tiết kiệm một lượng đáng kể ngân sách nhà nước, giảm áp lực cho các trại giam đang ngày càng quá tải. Đồng thời, tạo điều kiện cho các trại giam đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao chất lượng cải tạo, giáo dục phạm nhân, chuẩn bị các cơ sở cần thiết cho họ tái hoà nhập cộng đồng khi mãn hạn tù.
Có thể nói, kết quả thu được từ công tác đặc xá từ trước đến nay được toàn xã hội đồng tình, được quốc tế thừa nhận như một hành động có tính nhân đạo nhân văn cao cả và là một thắng lợi chính trị của Đảng và Nhà nước ta.
Sau khi trở về với gia đình, người được hưởng chính sách đặc xá tiếp tục được xã hội giúp đỡ tái hoà nhập cộng đồng. Tỷ lệ tái phạm trong số được đặc xã thấp hơn nhiều so với số phạm nhân mãn hạn tù.
Một số địa phương do làm tốt công tác tiếp nhận, quản lý, động viên, giúp đỡ, giáo dục, tạo việc làm, tỷ lệ tái phạm thấp hơn như Nghệ An, Thanh Hoá, Đồng Nai…Theo báo cáo của tỉnh Nghệ An, từ năm 2000 đến năm 2005, toàn tỉnh có 1.968 người được đặc xá về địa phương thì chỉ có 213 trường hợp tái phạm (1,06%). Ở huyện Nghĩa Đàn chỉ có 5/84 trường hợp tái phạm (5,4%); huyện Hưng Nguyên có 8/86 tái phạm (chiếm 8%); huyện Con Cuông có 3/27 tái phạm (chiếm 11%)… Đặc biệt, ở thị xã Cửa Lò, 100% (55/55) số người được đặc xá không tái phạm (chỉ có 5 người nghiện ma tuý bị đưa đi cai nghiện). Trong 2 năm 2004 và 2005, tại tỉnh Đồng Nai có 720 trường hợp được đặc xá, tha trước thời hạn thì chỉ có 33 trường hợp tái phạm; nhiều địa phương trong tỉnh không có người tái phạm như huyện Tân Phú, Vĩnh Cửu. Ở tỉnh Thanh Hoá, trong 5 năm 2000-2000, toàn tỉnh có 2.710 người tù tha, đặc xá tha tù trước thời hạn thì có 149 đối tượng tái phạm, chiếm tỷ lệ 5,5%, trong đó đặc xá tái phạm là 3,3% và tù tha là 7,7%. Thấu hiểu chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, được gia đình và xã hội động viên, giúp đỡ; có rất nhiều người được đặc xá ra tù đã xoá bỏ mặc cảm, vượt qua khó khăn, tích cực lao động, sản xuất, kinh doanh và tham gia công tác xã hội, trở thành công dân tốt, thành đạt trong cuộc sống.
Hiệu quả công tác đặc xá được thể hiện bằng tỷ lệ tái phạm thấp chứng tỏ chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn. Nguyên nhân của thành công này là do: Thứ nhất, các ngành chức năng, đặc biệt là các thành viên Hội đồng Tư vấn đặc xá các cấp và các trại giam đã làm tốt công tác tham mưu và triển khai quyết định của Chủ tịch nước một cách nghiêm túc, bảo đảm nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch và bảo đảm yêu cầu chính trị về đối nội, đối ngoại và yêu cầu về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Thứ hai, các địa phương đã tổ chức tốt công tác tiếp nhận, quản lý, giáo dục, giúp đỡ ổn định cuộc sống, tạo việc làm đối với người được đặc xá, giúp họ sớm tái hoà nhập cộng đồng. Nhiều địa phương đã đưa công tác tái hoà nhập cộng đồng người có quá khứ phạm tội trở thành một nội dung và được hưởng các chính sách thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia như Chương trình mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, Chương trình dạy nghề, tạo việc làm, Chương trình 135…
Tuy nhiên, công tác đặc xá trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc, cần sớm được khắc phục trong thời gian tới, đó là:
Một là, trình tự thủ tục xét đặc xá còn rườm rà, chậm và còn có trường hợp chưa chính xác tiêu chuẩn, nơi thì xét quá chặt, máy móc, nơi lại xét quá lỏng, chưa đúng quy định. Nguyên nhân của tình trạng này là do trước đây, Nhà nước ta chưa có luật về đặc xá, các quy định về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét đặc xá mỗi năm một khác và ban hành rất gần thời điểm ra quyết định về đặc xá (chủ yếu do Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương đề xuất Chủ tịch nước) nên thường đặt các trại giam và các địa phương vào thế bị động, phải làm gấp gáp cho kịp thời điểm. Nguyên nhân thứ hai là do quá trình chuẩn bị hồ sơ của các trại giam còn bị động, yếu và chậm. Một nguyên nhân nữa là do các tiêu chuẩn chính sách được xét đặc xá như phạm nhân là con liệt sỹ, gia đình có công với nước, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bản thân phạm nhân là thương binh, hoặc được tặng thưởng các vinh dự nhà nước, già yếu, mắc bệnh hiểm nghèo… mỗi nơi hiểu và vận dụng khác nhau, và thường thực hiện rất chậm.
Hai là, việc đặc xá cho phạm nhân người nước ngoài còn có những vướng mắc như: mặc dù đã có quyết định đặc xá dành cho họ nhưng các trại giam chưa hoặc không liên hệ được với cơ quan đại diện nước ngoài, hoặc phía nước ngoài không nhận. Vì vậy, các trại giam không biết trả họ về đâu. Việc nuôi dưỡng, chăm sóc họ (đặc biệt là các trường hợp mắc bệnh hiểm nghèo) là cực kỳ tốn kém và khó khăn, phức tạp. Đây là một vướng mắc cả về mặt luật pháp, cả về mặt trách nhiệm của các cơ quan chức năng. Đến nay, tình trạng này vẫn chưa được khắc phục.
Ba là, công tác tiếp nhận, quản lý, giáo dục, giúp đỡ người được đặc xá tái hoà nhập cộng đồng ở nhiều địa phương còn thiếu sự quan tâm của chính quyền và các đoàn thể nhân dân. Việc làm các thủ tục khai báo, trình diện, tiếp nhận người được đặc xá ở nhiều địa phương còn chậm, gây phiền hà, vì vậy ảnh hưởng đến các hoạt động quản lý của cơ quan chức năng như quản lý tạm trú, tạm vắng, cấp, đổi giấy tờ tuỳ thân. Ở nhiều nơi, chính quyền và các đoàn thể nhân dân chưa thực sự quan tâm, giúp đỡ, giáo dục để người được đặc xá trở về địa phương sớm xoá bỏ mặc cảm, ổn định cuộc sống. Nhìn chung, vai trò của các ngành, các đoàn thể, cơ quan, doanh nghiệp, nhất là ở cơ sở trong việc giúp người được đặc xá tái hoà nhập cộng đồng còn mờ nhạt, còn có tâm lý ỷ lại vào chính quyền và coi việc này là việc của ngành chức năng, không phải việc của mình. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến chưa chấm dứt được tình trạng tái phạm ở một số người được đặc xá.
Xác định đặc xá là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ, truyền thống nhân văn của dân tộc và tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất cho công tác đặc xá, ngày 21-11- 2007, Quốc hội đã thông qua Luật Đặc xá. Luật đã có hiệu lực kể từ ngày 1- 3 - 2008. Năm 2008 là năm đầu tiên thực hiện công tác đặc xá theo đạo luật nói trên của Nhà nước ta. Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương và các cơ quan có thẩm quyền đang tham mưu giúp Chủ tịch nước và gấp rút chuẩn bị cho các đợt đặc xá tiếp theo của năm 2008. Dư luận hoan nghênh và đón chờ công tác đặc xá năm 2008 với hy vọng tính nhân đạo và truyền thống nhân văn của chính sách này sẽ tiếp tục được nâng lên một tầng cao hơn./.
(1) Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t3, tr555
Học để làm người, học để làm nghề*  (01/09/2008)
Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức kỷ niệm 63 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9  (01/09/2008)
Thành phố Hồ Chí Minh nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo theo hướng toàn diện, bền vững  (01/09/2008)
Những sự kiện quốc tế đáng chú ý trong tuần (từ 25-8 đến 31-8-2008)  (01/09/2008)
Sôi nổi các hoạt động kỷ niệm Quốc khánh 2-9  (01/09/2008)
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm