Những nguyên tắc của đấu tranh lý luận ở nước ta hiện nay

Lê Hữu Nghĩa GS, TS, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
15:31, ngày 03-10-2013
TCCS - Đấu tranh lý luận là một trong những hình thức của đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Đấu tranh lý luận vừa phản ánh đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, vừa là công cụ, vũ khí sắc bén của đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị. Không thông qua đấu tranh lý luận để chống lại những quan điểm sai trái, thù địch thì không thể củng cố, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, làm nền tảng cho toàn bộ cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản để thực hiện mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Đấu tranh lý luận chống các quan điểm duy tâm, siêu hình, không tưởng, vô chính phủ, cơ hội, xét lại... là một vấn đề có tính quy luật trong quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác. C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin là những nhà lý luận xuất sắc, các ông rất coi trọng đấu tranh lý luận, thông qua đấu tranh lý luận mà các ông phát triển học thuyết của mình. Các ông đã phê phán sâu sắc quan điểm của phái Hê-ghen trẻ, của Pru-đông, Lát-xan, Đuy-rinh, Cau-xky, Béc-xtanh, Ma-khơ... và đã để lại những tác phẩm lý luận nổi tiếng như “Hệ tư tưởng Đức”, “Gia đình thần thánh”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Chống Đuy-rinh”, “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”..., để lại kiểu mẫu về đấu tranh lý luận cả về nội dung và phương pháp.

Từ di sản về đấu tranh lý luận của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin, có thể rút ra một cách tổng quát những nguyên tắc của đấu tranh lý luận là tính đảng và tính khoa học (hai tính này có quan hệ biện chứng với nhau). Cần quán triệt và vận dụng tính đảng và tính khoa học vào cuộc đấu tranh lý luận ở nước ta hiện nay, phù hợp với bối cảnh mới của tình hình.

Nguyên tắc tính đảng và tính khoa học trong đấu tranh lý luận trong tình hình hiện nay ở nước ta bao gồm một số yêu cầu cơ bản sau:

Nắm vững thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp biện chứng mác-xít

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở triết học của tính đảng cộng sản. Trong thời kỳ đổi mới, cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, dân chủ hóa xã hội, đời sống văn hóa tinh thần ngày càng phong phú, đa dạng nhưng cũng ngày càng phức tạp. Nhiều hiện tượng “lạ” liên quan đến tâm linh, ngoại cảm xuất hiện mà ngày nay chúng ta chưa thể giải thích hết được trên cơ sở khoa học. Hiện tượng bói toán, lễ chùa, xem ngày xem giờ, đốt vàng mã, cầu trời khấn phật... ngày càng phổ biến, xu hướng mê tín dị đoan có chiều hướng gia tăng trong cán bộ và nhân dân. Tuy vậy chúng ta phải kiên định với thế giới quan duy vật khoa học, vì đây là cơ sở triết học của lý luận cách mạng của chúng ta. Thiếu nó, chúng ta dễ dao động ngả nghiêng, dễ xa rời nguyên tắc một cách tệ hại. Mặt khác cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục thế giới quan duy vật khoa học, tiếp tục đi sâu nghiên cứu để lý giải một cách khoa học những hiện tượng “lạ” trong đời sống ý thức của con người, nghiên cứu những thành tựu khoa học và công nghệ mới nhất để bổ sung, làm phong phú, sâu sắc hơn thế giới quan duy vật biện chứng trong điều kiện mới.

Đấu tranh lý luận của chúng ta đòi hỏi phải mang tính khoa học và dựa trên cơ sở khoa học. Tính khoa học trước hết đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng tốt những nguyên tắc của phương pháp biện chứng mác xít - đó là các nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển, thực tiễn và lịch sử - cụ thể, kiên quyết chống tư duy bảo thủ, giáo điều, cực đoan, duy ý chí. Cần nắm vững và vận dụng sáng tạo các quy luật biện chứng và lịch sử để xem xét sự vận động và phát triển của thế giới đương đại trong xu thế toàn cầu hóa, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, dân chủ hóa đời sống xã hội, sự biến động nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới, xu thế đa cực hóa, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển,... Chỉ có quán triệt phương pháp biện chứng mới nâng cao được chất lượng và hiệu quả đấu tranh lý luận, nâng cao được tính chiến đấu, tính sắc bén, tính lô-gíc chặt chẽ trong lập luận, từ đó mới tăng được tính thuyết phục trong phê phán những quan điểm sai trái, thù địch về tư tưởng - lý luận, tránh rơi vào tình trạng phê phán theo kiểu áp đặt, “nói lấy được”, lập luận không nhất quán, chung chung trừu tượng, không dựa trên thực tiễn hoặc lý luận khoa học để phê phán, bác bỏ.

Yêu cầu tính khoa học trong đấu tranh lý luận đòi hỏi chúng ta phải mài sắc tư duy phê phán, vận dụng nhuần nhuyễn các khái niệm, phạm trù, quy luật của khoa học. Cần làm rõ nguồn gốc, xuất xứ của quan điểm lý luận cần phê phán, hoàn cảnh phát sinh và ảnh hưởng của nó, nó phản ánh lợi ích của ai, cần so sánh nó với những lý luận đã hoặc đang có.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông về bản chất có tính phê phán và cách mạng, nó không phải là giáo điều mà là “kim chỉ nam” cho hành động. Hoạt động đấu tranh lý luận của chúng ta phải quán triệt tinh thần đó của học thuyết Mác - Lê-nin.

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và được bổ sung, phát triển năm 2011 đã khẳng định Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng, “kim chỉ nam” cho hành động.

Ngay từ khi Đảng ta chưa ra đời, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thấy vai trò dẫn đường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Năm 1927, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(1). Chủ nghĩa đó, theo Người là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì đó là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”(2).

Trong 83 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng đi sâu nhận thức chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhờ đó đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Nhưng từ khi Liên Xô tan rã, các thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” nhằm tấn công, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi so với trước đây, tạo ra cả thời cơ và thách thức, khó khăn ngày càng tăng lên, tình hình thế giới biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nguy cơ về chủ quyền biển, đảo ở Biển Đông, những khó khăn, yếu kém về kinh tế - xã hội của đất nước ta tăng lên, sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nạn tham nhũng, quan liêu trong bộ máy công quyền chưa ngăn chặn được... Tình hình khách quan và chủ quan trên đây đã tác động hằng ngày hằng giờ đến tư tưởng, nhận thức, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mơ hồ, dao động về nền tảng tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tình trạng phai nhạt lý tưởng, nhạt đảng, nhạt chính trị, nhạt chủ nghĩa đang diễn ra và có xu hướng tăng lên. Một số người cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ phù hợp với bối cảnh của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX - thời đại văn minh công nghiệp, còn bây giờ là thế kỷ XXI - thời đại văn minh hậu công nghiệp, văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên nó không còn thích hợp nữa (!); một số khác cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là sản phẩm của Việt Nam mà là ngoại nhập từ phương Tây nên không phù hợp với Việt Nam (!).

Trên một loạt vấn đề lớn ở tầm quan điểm liên quan đến yêu cầu phải vận dụng lý luận và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong nhận thức của không ít cán bộ, đảng viên còn rất khác nhau, không rõ đúng - sai. Chẳng hạn như đánh giá về bản chất của thời đại, về chủ nghĩa tư bản, về chủ nghĩa xã hội, về nguyên nhân sự sụp đổ của Liên Xô, về thời kỳ quá độ và định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về kinh tế thị trường ở nước ta, về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, về sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu đất đai,... Nguyên nhân của tình trạng trên có phần do công tác tư tưởng - lý luận còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa nghiên cứu sâu, đến nơi đến chốn để làm rõ bản chất của vấn đề, chưa lý giải được một cách thật sự khoa học, có tính thuyết phục, nhiều vấn đề còn bỏ lửng, dở dang, chưa kết luận, để cho đảng viên hiểu thế nào cũng được. Từ đó dẫn đến tình trạng còn nhiều vướng mắc trong nhận thức của cán bộ, đảng viên, nói và làm, nói và nghĩ khác nhau, thiếu thảo luận một cách dân chủ, còn khuôn sáo, quy chụp nhau, làm hạn chế sự thống nhất về chính trị, tinh thần trong nội bộ Đảng.

Những ý kiến muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về mặt nhận thức đã hiểu không đúng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, họ quy chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, bạo lực, hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách cắt xén. Để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, họ đem đối lập một cách giả tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin với dân tộc (họ nói “cứ nhắm mắt theo chủ nghĩa thì phản bội dân tộc”), hoặc đem đối lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh, hoặc hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin thông qua lăng kính quan điểm của Xta-lin. Họ không thấy rằng, có một số luận điểm cụ thể của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin không còn phù hợp với điều kiện ngày nay hoặc bị nhận thức sai mà bây giờ phải nhận thức lại cho đúng, song những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong tinh thần khoa học và cách mạng của nó vẫn giữ nguyên giá trị, như các quy luật của phép biện chứng duy vật, của học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết về giá trị thặng dư, học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận về chủ nghĩa xã hội... Họ không thấy tình hình lịch sử - cụ thể luôn luôn biến đổi, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của xã hội loài người do chủ nghĩa Mác - Lê-nin nêu lên là không thay đổi, có giá trị bền vững. Họ cũng không thấy hoặc cố tình không thấy rằng trong gần 30 năm đổi mới, Đảng ta đã có nhiều đổi mới về tư duy lý luận, đã nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo tinh thần khẳng định giá trị bền vững, sức sống của những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời loại bỏ những nhận thức không đúng, ấu trĩ, giáo điều, duy ý chí về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về chủ nghĩa xã hội, phân biệt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin với những luận điểm cụ thể của các ông gắn liền với hoàn cảnh lịch sử - cụ thể lúc đó mà bây giờ đã bị lịch sử vượt qua. Họ cũng không thấy rằng trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Không có sự vận dụng, phát triển sáng tạo đó thì không có những thành tựu của đổi mới, chẳng hạn như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, phát triển văn hóa, con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đổi mới hệ thống chính trị, thực hành và phát huy dân chủ...

Có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin từ khi được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tiếp thu, vận dụng sáng tạo đã trở thành ngọn cờ tư tưởng - lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng nước ta, trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng, trở thành một nguồn gốc thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành một bài học xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.

Để phát huy bài học đó trong tình hình mới, chúng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nhận thức sâu sắc hơn các luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xem những luận điểm nào có giá trị lâu bền trước kia đúng, bây giờ và về sau vẫn đúng; những luận điểm nào trước kia đúng, nhưng điều kiện lịch sử hiện nay đã thay đổi, không còn phù hợp, cần bổ sung, phát triển hoặc thay đổi; những luận điểm nào ngay khi sinh thời, các ông đã phát hiện thấy không đầy đủ, không phù hợp với thực tế và đã sửa đổi, nhưng chúng ta không thấy hết; những luận điểm nào của các ông mà chúng ta đã hiểu sai do nghiên cứu không thấu đáo hoặc hiểu theo cách hiểu của người khác, đảng khác. Đồng thời phải bổ sung, phát triển lên tầm cao mới chủ nghĩa Mác - Lê-nin do yêu cầu của thực tiễn mới.

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả đấu tranh lý luận, cần phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra bài học số một là “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”(3). Đây là sự tổng kết sâu sắc về lịch sử và lý luận quá trình cách mạng nước ta, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong đường lối cách mạng của Đảng từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay. Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng phù hợp trong từng thời kỳ lịch sử là một trong những nguyên nhân của thành tựu cách mạng nước ta.

Ngày nay trong bối cảnh phức tạp mới của tình hình khi mà chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, còn chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, nhất là về kinh tế, thì vấn đề con đường xã hội chủ nghĩa lại được đặt ra cả trên bình diện quốc tế và ở nước ta.

Ở nước ta, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta giành được trong gần 30 năm đổi mới, đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình hình kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng giảm sút, nền kinh tế tiềm ẩn những bất ổn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra nghiêm trọng, chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn; tình trạng phai nhạt lý tưởng, giảm sút niềm tin vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa… Bên cạnh đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng đẩy mạnh âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” kết hợp gây bạo loạn lật đổ nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trước tình hình đó, các thế lực cơ hội chính trị và một số người có sự dao động về tư tưởng muốn phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng “Chủ nghĩa xã hội là con đường không có tương lai”, “đi vào ngõ cụt”, “đã bị lịch sử phủ định”; “ngày xưa trong thời kỳ phong kiến đã có chủ nghĩa xã hội đâu mà vẫn giữ được độc lập dân tộc”; “lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là do ý chí chủ quan của Đảng”; “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu, nước mạnh”...

Không thể tán thành với những quan điểm trên đây.

Như chúng ta biết trước đây ở nước ta, các triều đại phong kiến tiến bộ đại diện cho dân tộc đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập cho đất nước. Khi đó chưa có chủ nghĩa xã hội. Trên thế giới chủ nghĩa xã hội được đặt ra về lý luận khoa học khi chủ nghĩa Mác ra đời, về thực tiễn khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Do đó nếu đặt vấn đề về chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời đại phong kiến là phi lịch sử và cũng không thể dựa vào đó để phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Và cũng không nên cường điệu những thành tựu của chủ nghĩa tư bản mà lảng tránh những khuyết tật, mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản bên cạnh những thành tựu đạt được cũng đang gặp phải nhiều mâu thuẫn gay gắt, khủng hoảng, suy thoái. Đặc biệt cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính, suy thoái kinh tế của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu từ những năm 2008 - 2009 kéo dài đến nay là cuộc khủng hoảng lớn nhất của chủ nghĩa tư bản trong 80 năm qua và là cuộc khủng hoảng nhiều mặt: tài chính, tiền tệ, thương mại, cơ cấu, thể chế và mô hình phát triển. Chủ nghĩa tư bản hiện đại về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột, bất công. Chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được những mâu thuẫn nan giải của mình, muốn giải quyết phải thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn là chủ nghĩa xã hội. Đúng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định, chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.

Và cũng không thể đồng nhất chủ nghĩa xã hội với những khuyết tật trong mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết trước đây, không thấy những thành tựu đổi mới chủ nghĩa xã hội đang diễn ra ở Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu-ba cũng như những sự phát triển mới của phong trào “cánh tả” ở Tây Âu, phong trào “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở nhiều nước thuộc khu vực Mỹ La-tinh.

Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ có nguyên nhân khách quan và chủ quan mang tính lịch sử - cụ thể. Không thể phủ nhận những thành tựu vĩ đại mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đóng góp cho loài người. Tuy nhiên, do chậm khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội, do những sai lầm chủ quan, duy ý chí, xa rời những nguyên tắc mác-xít - lê-nin-nít, do sự chống phá thâm độc của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội, rút cuộc cải tổ thất bại, chế độ xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ. Tuy nhiên, đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, mà chỉ là sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Chủ nghĩa xã hội với những phẩm giá tốt đẹp của nó vẫn là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới.

Còn việc chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa không phải là do ý muốn chủ quan của Đảng mà đây là kết quả tổng hợp điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, kinh tế và chính trị, trong nước và quốc tế, phản ánh khát vọng của dân tộc. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cũng là sự lựa chọn của chính lịch sử nước ta từ hơn 80 năm về trước. Lịch sử cận đại và hiện đại ở nước ta đã khẳng định, con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay do Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Có vậy độc lập dân tộc mới triệt để. Chống đế quốc tức là chống áp bức, bóc lột, mà muốn chống áp bức, bóc lột triệt để phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng mác-xít - lê-nin-nít chân chính, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, gắn bó với nhân dân, dày dạn trong đấu tranh cách mạng, hoàn toàn có khả năng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc

Cuộc đấu tranh lý luận hiện nay phải trên cơ sở kiên định đường lối đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa, đây là nguyên tắc bất di bất dịch đối với Đảng và nhân dân ta. Xa rời nguyên tắc đó sẽ không tránh khỏi sai lầm về chính trị.

Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thực hiện được gần 30 năm. Thực tiễn và lý luận đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, đem lại những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử cho đất nước. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới(4). 

Những thành tựu của đổi mới đã khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn cách mạng nước ta. Sau gần 30 năm lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Nhận thức lý luận đó được tổng kết từ thực tiễn, được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, đó cũng là quá trình khắc phục những nhận thức bảo thủ, giáo điều, chủ quan duy ý chí về chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với thời đại và đặc điểm của Việt Nam trong điều kiện quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phải đổi mới toàn diện, đồng bộ giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhưng phải có bước đi, lộ trình vững chắc; đổi mới nhưng phải giữ ổn định chính trị - xã hội, không được xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội; phải lấy phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tổng kết, khái quát một cách cô đọng nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam thành 8 đặc trưng cơ bản, 8 phương hướng cơ bản và 8 mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt.

Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lượng và hiệu quả cao hơn; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội, môi trường; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ(5).

Trong quá trình đổi mới, chúng ta còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập. Kinh tế phát triển chưa bền vững, năng suất, hiệu quả, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng; những vấn đề xã hội bức xúc ngày càng nổi lên; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ chưa ngăn chặn được; công tác lý luận còn lạc hậu, yếu kém, bất cập, chưa giải đáp được nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra; nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta còn nhiều vấn đề chưa sáng tỏ. Bên cạnh thời cơ, đất nước đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ.

Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy, kiên định đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới, làm cho đường lối đó được thực hiện ngày càng hiệu quả với chất lượng cao, quyết tâm lớn, bản lĩnh vững vàng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa./.

----------------------------------------

(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 289

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 65

(4) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 177

(5) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 186-187