Khai thác lợi thế của Hà Nội và thế mạnh của An Giang trong hợp tác phân phối sản phẩm
Lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng trong bất kỳ hoàn cảnh nào, liên kết kinh tế đều đem lại hiệu quả cho các bên có liên quan, ở cả cấp độ quốc tế cũng như trong nước (giữa các thành phố, tỉnh và địa phương). Với lợi thế sẵn có của Thủ đô Hà Nội và thế mạnh của An Giang, việc hợp tác chặt chẽ và toàn diện với An Giang trong việc sử dụng kênh phân phối của Hà Nội nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá của An Giang là một chủ đề quan trọng. Việc đưa hàng hoá của các địa phương nói chung và An Giang nói riêng ra tiêu thụ tại Hà Nội là một chủ đề không mới, đã được thực hiện tự phát bởi các chủ thể trong nền kinh tế trên nền tảng của quy luật cung - cầu, nhưng trên thực tế kết quả còn khiêm tốn và nhu cầu bức thiết là hoạt động này phải được nâng lên một tầm cao mới nhằm đem lại lợi ích cho các bên liên quan trong đó có chính quyền, doanh nghiệp và nhân dân Hà Nội và An Giang một cách bền vững.
Lợi thế kênh phân phối của Thủ đô Hà Nội
Hà Nội, trái tim của cả nước không chỉ ở vị trí chính trị - xã hội mà Hà Nội là một thị trường với gần 7 triệu dân, hơn 100 ngàn doanh nghiệp - nơi tập trung hầu hết các doanh nghiệp lớn nhất đất nước, trong đó, có các doanh nghiệp phân phối lớn như Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro), Tập đoàn phân phối Phú Thái... Hệ thống siêu thị tập trung với các tên tuổi lớn như Metro, BigC, FiviMart, Intimex… đã khiến Hà Nội có sức mạnh tuyệt đối trong việc phân phối hàng hoá của cả nước. Quá trình chuyển dịch các chợ cóc, chợ tạm sang trung tâm thương mại cao và trung cấp, cùng với định hướng tiêu dùng của người dân Thủ đô ngày càng hướng về chất lượng hơn số lượng đã khiến cho Hà Nội là điểm dừng chân lý tưởng của mọi nhãn hàng, đặc biệt là hàng nông, lâm sản, đặc sản của các địa phương.
Ngày 17-11-2012, Hà Nội và 10 tỉnh Đồng bằng sông Hồng đã ký kết thoả thuận hợp tác toàn diện, tạo thành một vùng kinh tế với diện tích 23.000 km2, chiếm 7% diện tích của cả nước; dân số là hơn 20 triệu người, chiếm gần 23% tổng dân số toàn quốc; đóng góp thu ngân sách hơn 36,4% và chi ngân sách chiếm 25% tổng chi ngân sách toàn quốc. Vùng Đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng kinh tế có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Chỉ tính riêng trong 2 năm 2011 và 2012, thành phố Hà Nội đã triển khai hợp tác với 28 tỉnh, thành phố trong cả nước. Các nội dung hợp tác đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, gắn kết quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội với các tỉnh, thành phố Vùng Đồng bằng sông Hồng và các tỉnh, thành phố khác với Hà Nội.
Nhìn từ góc độ khoa học về chuỗi cung ứng giá trị, Hà Nội hội tụ gần như đầy đủ các cấu phần từ hoạt động sơ chế đến hoàn thiện, lưu trữ sản phẩm; phân phối và dịch vụ hậu mãi. Đây là lợi thế cực kỳ quan trọng của nền kinh tế Thủ đô. Thêm vào đó, với thế mạnh về quản lý và kinh nghiệm liên kết vùng, Hà Nội có khả năng giúp An Giang tiếp cận nhiều thị trường khác trong khu vực Đồng bằng sông Hồng và tiến tới xuất khẩu qua bên kia biên giới thông qua điều kiện hạ tầng giao thông tương đối lý tưởng: thông thương qua đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không.
Với tốc độ tăng trưởng GDP trên 10%/năm, chỉ số tăng trưởng tiêu dùng tăng trên 20%/năm thì Hà Nội cùng với các địa phương lân cận thực sự là một thị trường hấp dẫn cho các loại hàng hoá, sản vật trên cả nước nói chung và An Giang nói riêng. Sứ mệnh và điều kiện đã sẵn sàng để Hà Nội có trách nhiệm cùng với chính quyền tỉnh An Giang trong vấn đề phân phối hàng hoá sao cho phù hợp với nhu cầu của dân cư và doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và vùng phụ cận, tiến tới xuất khẩu.
Thế mạnh của An Giang
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 12 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc Trung ương với diện tích 39.734 km² được xác định là Vùng Kinh tế trọng điểm của Việt Nam theo Quyết định 92/QĐ-TTg ngày 16-4-2009 của Thủ tướng Chính phủ. Hiện vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong đó có An Giang đang chiếm 30% giá trị sản xuất nông nghiệp và 54% sản lượng thủy sản của cả nước.
Báo cáo về chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2012 (Do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Dự án nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) do Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ tài trợ thực hiện và công bố ở Hà Nội ngày 14-3-2013) cho thấy An Giang đứng thứ hai toàn quốc (với tổng điểm 63,42, sau Đồng Tháp - đứng đầu với 63,79 điểm), duy trì ở nhóm tốt và tăng 17 bậc so với năm 2011 (năm 2011, An Giang xếp thứ 19/63 tỉnh, thành phố); và đứng thứ hai so với các tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (tăng 3 bậc so năm 2011). Nhìn vào hệ thống các chỉ tiêu mà VCCI và VNCI đưa ra, có thể thấy, chính quyền và nhân dân An Giang đã rất coi trọng công tác cải tiến môi trường đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua hàng loạt các biện pháp kích thích đầu tư và tiêu dùng trên địa bàn tỉnh.
Năm 2013, An Giang đã đề ra một loạt các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội tham vọng như tổng giá trị tăng thêm (GDP) tăng 9% so năm 2012; GDP bình quân đầu người đạt 37,520 triệu đồng, tương đương 1.799 USD. Cơ cấu kinh tế: khu vực nông nghiệp chiếm 32,12%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 12,20%; khu vực dịch vụ chiếm 55,68%. Kim ngạch xuất khẩu đạt 900 triệu USD.
Để có thể thực hiện các mục tiêu đó An Giang đã chủ động hợp tác với nhiều địa phương, đối tác trong việc thúc đẩy phân phối hàng hoá của An Giang vượt qua ranh giới địa chính của tỉnh. Cùng với thế mạnh của địa phương trong việc sản xuất các sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản, An Giang dần dần xác định được chỗ đứng vững chắc trong “bản đồ” kinh tế Việt Nam (hiện tại An Giang đã có 2/10 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản mạnh nhất cả nước). An Giang cũng được biết đến là vựa lúa của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và trên cả nước. Việc tìm kiếm cơ hội hợp tác phân phối hàng hoá của An Giang trên địa bàn thành phố Hà Nội nhìn ở góc độ rộng cũng là quá trình phân phối hàng hoá của Đồng bằng sông Cửu Long trên địa bàn Đồng bằng sông Hồng.
Giải pháp thúc đẩy việc đưa hàng hoá của An Giang ra phân phối trên địa bàn Hà Nội
Để có thể tận dụng được lợi thế hệ thống kênh phân phối của Hà Nội và những điểm mạnh cũng như tiềm năng của An Giang, cần thực hiện một số hoạt động hợp tác sau:
Thứ nhất, cần xác định rõ các yếu tố then chốt trong mô hình hợp tác giữa Hà Nội và An Giang về phân phối sản phẩm của An Giang tại Hà Nội và những vùng phụ cận. Mô hình hợp tác này phải thể hiện được vai trò tạo lập môi trường của các cơ quan quản lý nhà nước đồng thời xây dựng được cơ chế hỗ trợ tối đa của chính quyền đối với doanh nghiệp và thị trường. Nguyên tắc vận hành của mô hình hợp tác là Nhà nước không làm thay việc của doanh nghiệp và người dân. Chính quyền sẽ chỉ can thiệp ở một mức độ nhất định và liên quan tới những vấn đề mà doanh nghiệp, người dân hai địa phương không thể làm được, không muốn làm và không được phép làm.
Thứ hai, cần có sự đánh giá và phân tích khoa học về thực trạng hợp tác nhằm xác định các điểm mạnh, chưa mạnh của từng địa phương. Một số vấn đề cần được đánh giá chi tiết như khoảng cách giữa nhu cầu đa dạng và tương đối cao của thị trường Hà Nội và chất lượng sản phẩm của An Giang, khoảng cách giữa cấu trúc hệ thống phân phối của Hà Nội với độ tin cậy và năng lực sản xuất của An Giang. Quá trình hợp tác cần đi vào thực chất và được đo lường hiệu quả một cách thường xuyên bởi một đơn vị độc lập. Trong quá trình hợp tác phân phối sản phẩm, kinh nghiệm cho thấy, nếu không có hiệu quả thiết thực thì mối quan hệ sẽ rất lỏng lẻo và tự động bị triệt tiêu. Chính vì vậy, việc lựa chọn sản phẩm, cách thức và lộ trình phân phối các sản phẩm của An Giang tại Hà Nội phải được chính quyền và các doanh nghiệp của An Giang cân nhắc rất kỹ dựa trên quá trình khảo sát nhu cầu một cách khoa học và thực tế. Đồng thời, Hà Nội cũng cần đưa ra các hướng dẫn và giới thiệu một cách cụ thể về hệ thống phân phối sản phẩm chính của Thủ đô, có thể chỉ định (hoặc giới thiệu) đầu mối doanh nghiệp chính làm cầu nối trong quá trình đưa sản phẩm của An Giang ra tiêu thụ trên địa bàn thành phố.
Thứ ba, việc tiếp nhận hàng hoá tiêu thụ của An Giang không phải là một quá trình thụ động một chiều. Bản thân các doanh nghiệp thương mại của Hà Nội cũng cần được khuyến khích tham gia vào chuỗi giá trị tạo sản phẩm của An Giang nhằm phù hợp hoá với nhu cầu ngày càng cao của thị trường Hà Nội và các vùng phụ cận. Các doanh nghiệp Hà Nội có thể đầu tư vào An Giang và các doanh nghiệp thương mại của An Giang có thể mở chi nhánh, văn phòng đại diện thương mại tại Hà Nội.
Thứ tư, việc thúc đẩy phân phối các sản phẩm của An Giang tại Hà Nội cần được tiến hành bởi nhiều hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau theo mô hình Marketing hỗn hợp. Theo mô hình này, chính quyền hai địa phương cần xác định rõ những hoạt động cụ thể cần phải tác động, đồng thời có những hướng dẫn cụ thể để các doanh nghiệp hai bên tự chủ động giải quyết các vấn đề của họ.
Theo mô hình này, chúng tôi có một vài gợi ý cho giai đoạn ban đầu như sau:
- Đối với sản phẩm mà An Giang dự định phân phối tại Hà Nội
Cần điều tra nhu cầu thị trường Hà Nội cũng như năng lực cung cấp của An Giang một cách hệ thống để hình thành được nhóm các sản phẩm mục tiêu trong giai đoạn 5 năm sắp tới. Nghiên cứu thị trường sẽ giúp chỉ ra nhu cầu của thị trường Hà Nội (và có thể là các tỉnh Đồng bằng sông Hồng) đối với các sản phẩm chủ lực của An Giang như hoa quả, trái cây, lúa gạo đặc sản, khoai mì công nghiệp, bông, thuỷ sản… Từ kết quả của xác định nhu cầu thị trường Hà Nội và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng sẽ tiến hành xây dựng chiến lược định vị cho sản phẩm gắn với tiếp thị thương hiệu xuất sứ của sản phẩm đến từ An Giang. Cần có chính sách thu hút các doanh nghiệp Hà Nội tham gia vào quá trình này cũng như quá trình tạo sản phẩm.
- Đối với hoạt động định giá
Về cơ bản hoạt động này cần tuân theo quy luật cung cầu, tuy nhiên chính quyền và các doanh nghiệp An Giang nên có tầm nhìn xa trong việc đưa hàng hóa thâm nhập vào thị trường Hà Nội bằng việc thực hiện tiến trình định giá cạnh tranh trong giai đoạn đầu rồi tiến tới quá trình định giá dựa trên nhận thức khách hàng ở giai đoạn tiếp theo. Nguyên tắc căn bản cần lưu ý đó là người dân Thủ đô sẵn sàng chi trả giá cao hơn cho những sản phẩm có chất lượng hơn và đã có chỗ đứng thương hiệu trong tâm trí người tiêu dùng.
- Đối với hoạt động xúc tiến thương mại
Chính quyền Hà Nội và An Giang cần đóng vai trò “bà đỡ” cho hoạt động này. Cần xây dựng cơ chế và các hoạt động đặc thù hỗ trợ doanh nghiệp giữa hai địa phương bằng các phương pháp như tổ chức hội chợ chuyên ngành tại cả hai địa phương, xây dựng các chương trình hành động bán hàng lưu động, tổ chức bán kèm, bán chéo sản phẩm của An Giang với các sản phẩm của Hà Nội…
- Đối với hoạt động phân phối
Trước mắt, thành phố Hà Nội cần cử đầu mối (Sở Công Thương hoặc Tổng Công ty Thương mại Hà Nội) chủ trì việc giới thiệu hệ thống kênh phân phối của thủ đô đến trực tiếp các doanh nghiệp tại An Giang. Thêm vào đó, chính quyền và doanh nghiệp An Giang cũng cần chủ động lựa chọn cho mình một trong các cách tiếp cận kênh phân phối chủ đạo cho hoạt động phân phối hàng hoá của An Giang trên địa bàn Hà Nội.
Tiềm năng phân phối các sản phẩm của An Giang tại Hà Nội là rõ ràng, tuy nhiên để biến ý tưởng thành hiện thực cần có sự phân tích thấu đáo và quyết tâm của lãnh đạo hai địa phương và các bên liên quan để từ đó đưa ra được mô hình và phương thức hợp tác hiệu quả./.
--------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
(1) Bài phát biểu chào mừng và bế mạc của Chủ tịch UBND TP. Hà Nội tại Hội nghị hợp tác phát triển giữa thành phố Hà Nội với các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng. www.hanoi.gov.vn.
(2) Bài phát biểu chào mừng của Bí Thư Thành ủy Hà Nội tại Hội nghị hợp tác phát triển giữa thành phố Hà Nội với các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng www.hanoi.gov.vn
(3) www.angiang.gov.vn
(4) Tổng cục Thống kê. Báo cáo số liệu năm 2011. http://www.gso.gov.vn
(5) Báo cáo Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của An Giang đến năm 2020 và vị trí, vai trò, tiềm năng và thế mạnh của Vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long. http://www.vietrade.gov.vn.
Hàng Việt Nam trong “cuộc chiến” với rào cản thương mại quốc tế  (15/04/2013)
Hàng Việt Nam trong “cuộc chiến” với rào cản thương mại quốc tế  (15/04/2013)
Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tạo điều kiện và tin tưởng ngư dân bám biển  (14/04/2013)
Khởi công Dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng  (14/04/2013)
- Về tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm