Về việc thể hiện tư tưởng chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp

PGS, TS. Nguyễn Minh Đoan - Đại học Luật Hà Nội
21:53, ngày 26-01-2013
TCCSĐT - Cũng như các bản hiến pháp trước đây, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, tuy nhiên, cách thức thể hiện chủ quyền nhân dân trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cần xem xét, thảo luận thêm.

Trong xã hội thần dân trước đây quyền lực, mà đặc biệt là quyền lực nhà nước thường thuộc về cá nhân nhà Vua (nhân dân được coi là của nhà nước, còn nhà nước là của Vua nên nhân dân chỉ là bầy tôi tớ của Vua). Sự phát triển của văn minh nhân loại đã chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công dân, nhân dân khi này không còn là của nhà nước nữa mà chính nhà nước khi này là của nhân dân, quyền lực mà đặc biệt là quyền lực nhà nước khi này là thuộc về nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước chỉ là tổ chức được nhân dân ủy quyền thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân. Nhân dân người chủ của đất nước được quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia, dân tộc. Khi tất cả quyền lực, đặc biệt là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân cũng có nghĩa là chủ quyền nhân dân đã được thiết lập. Hiến pháp của hầu hết các quốc gia đều tuyên bố chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, tuy nhiên, cách thức thể hiện chủ quyền nhân dân trong hiến pháp của các nước khác nhau thì khác nhau và ngay trong các bản hiến pháp của một nước cũng có thể khác nhau.

Ở Việt Nam ngay từ khi Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam ra đời thì vấn đề chủ quyền nhân dân đã được chú trọng ghi nhận và được thể hiện trong theo cách thức sau:

Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa.

Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo (Điều thứ 1); Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử… (Điều thứ 18); Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra… (Điều thứ 20); Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia… (Điều thứ 21); Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây: a/ Do hai phần ba tổng số nghị viện yêu cầu... c/ những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều thứ 70)…

Tư tưởng chủ quyền nhân dân được tiếp tục quy định trong Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, tuy nhiên, cách thức thể hiện đã khác đi. Chẳng hạn, Điều 4 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân”, Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Như vậy, các hiến pháp năm 1980, 1992 đều thu hẹp lại không dùng tập hợp từ “tất cả quyền lực (hoặc quyền bính) thuộc về nhân dân” mà dùng “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Khẳng định này chỉ nói đến quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà không nói đến các quyền lực khác. Các hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 đều chỉ quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực của mình (quyền lực nhà nước) thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân”, không quy định “quyền phúc quyết của nhân dân đối với hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia” nữa mà chỉ nói đến quyền “tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân” (Điều 53 Hiến pháp năm 1992).

Như vậy, Hiến pháp năm 1992 một mặt vẫn khẳng định chủ quyền nhân dân, tuyên bố tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhưng mặt khác lại có những quy định chưa thống nhất, ít nhiều làm cho chủ quyền nhân dân chưa được thể hiện đầy đủ và thống nhất trong nội dung của bản Hiến pháp. Chẳng hạn, chỉ quy định: Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Điều 6); không quy định “quyền phúc quyết của nhân dân đối với hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia” nữa mà chỉ nói đến quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 53); Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp (Điều 83); Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn: Làm hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp (Khoản 1 Điều 84); Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật… (Khoản 2 Điều 84); “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp” (Điều 147)...

Chúng tôi cho rằng, Hiến pháp của nước (tức của nhân dân), thì chủ quyền nhân dân cần phải được nhận thức và thể hiện đầy đủ trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp. Hiến pháp của nước, do vậy, đây phải là một sự thỏa thuận của nhân dân bằng văn bản trong việc thiết lập và thực hiện quyền lực công vì lợi ích chung của cả xã hội. Nhiều người ví Hiến pháp như “Bản khế ước xã hội” để nhân dân thỏa thuận với nhau về việc tổ chức đời sống xã hội, thực hiện việc trao quyền (ủy quyền) và giới hạn quyền lực cho nhà nước, cũng như của các thiết chế khác trong xã hội. Thông qua hiến pháp nhân dân xác định chính thể của nhà nước (nhà nước quân chủ hay nhà nước cộng hòa…), quy định về hình thức cấu trúc của nhà nước (nhà nước đơn nhất hay nhà nước liên bang…); thực hiện việc trao quyền lực nhà nước cho mỗi cơ quan nhà nước nắm giữ và thực hiện (quyền lực nhà nước sẽ do các cơ quan nào nắm giữ, thực hiện…); giới hạn phạm vi hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước (nhà nước, cơ quan nhà nước, công chức nhà nước được làm những gì, không được làm những gì bằng việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chúng); quy định cơ chế kiểm soát đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước của các tổ chức và cá nhân; cũng thông qua hiến pháp nhân dân quy định địa vị pháp lý của các tổ chức khác trong xã hội (địa vị pháp lý của tổ chức công đoàn, tổ chức đoàn thanh niên…); quy định quyền con người, quy định quy chế pháp lý của công dân và của các cá nhân khác (công dân, các cá nhân khác có những quyền, tự do, nghĩa vụ, trách nhiệm gì đối với Tổ quốc, đối với Nhà nước…); quy định sự tham gia của các tổ chức phi nhà nước, của công dân vào việc thực hiện các công việc nhà nước và xã hội; quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội... của đất nước.

Mặt khác cũng phải thấy rằng, ở phương diện nhà nước, hiến pháp là một bộ phận, nhưng là bộ phận vô cùng quan trọng của pháp luật thực định. Trong hệ thống các văn bản pháp luật nước ta, Hiến pháp được xem là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, là văn bản, là phương tiện pháp lý thể hiện tư tưởng của Đảng dưới hình thức những quy phạm pháp luật (1). Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội Việt Nam là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành theo trình tự, thủ tục đặc biệt. Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước và những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ… Hiến pháp là cơ sở để Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật khác. Với tư cách là luật cơ bản, Hiến pháp chỉ quy định những vấn đề chung, cơ bản mang tính nguyên tắc của Nhà nước như cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước... Do Hiến pháp không thể quy định được tất cả những gì liên quan tới Nhà nước, vì vậy, đòi hỏi phải có sự chi tiết, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp bằng các văn bản, các quy định khác. Nếu không có sự chi tiết, cụ thể đó những quy định của Hiến pháp sẽ khó đi vào cuộc sống, thậm chí có những quy định không thể thực hiện được. Vì lẽ đó thông qua Hiến pháp nhân dân uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động có thể ban hành luật và các văn bản dưới luật khác, nhằm để thực hiện Hiến pháp. Việc chi tiết, cụ thể hoá Hiến pháp bằng các văn bản pháp luật khác phải được thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và phải bảo đảm điều kiện là tất cả các văn bản pháp luật đó phải phù hợp với Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp.

Ở phương diện thuật ngữ chúng ta thấy trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn sử dụng hai chữ “nước” và “nhà nước”. Chẳng hạn, “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước”. Vì sao hiến pháp (của) nước lại là luật của nhà nước hay Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước và ngược lại, tòa án là cơ quan xét xử của nước… Có thể nói, “nước” và “nhà nước” là hai thuật ngữ để chỉ hai khái niệm có nội hàm khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì nướclà một vùng đất trong đó có những người thuộc một hay nhiều dân tộc cùng sống chung dưới một chế độ chính trị - xã hội và cùng thuộc về một nhà nước nhất định” (2). Nước là khái niệm để chỉ một quốc gia với lãnh thổ và dân cư ở một vị trí địa lý nhất định. Chẳng hạn, trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1959 có viết: “nước Việt Nam ta là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau” hay nước Việt Nam là một dải đất từ mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cái trên đó có dân cư sinh sống. Điều 1 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời”. Nước Việt Nam còn được hiểu là đất nước và con người Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam. Chẳng hạn, Điều thứ 2 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”; Điều 118 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…”. Còn nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị của xã hội có giai cấp, có khả năng đặt ra và thực thi pháp luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình. Nhà nước được sinh ra từ xã hội để quản lý xã hội (đất nước), khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước “là bộ máy quyền lực đặc biệt, được tổ chức chặt chẽ để thực thi chủ quyền quốc gia, tổ chức và quản lý xã hội bằng pháp luật, phục vụ lợi ích giai cấp, lợi ích xã hội và thực thi các cam kết quốc tế” (3); Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”. Trong xã hội có thể có nhiều tổ chức khác nhau và nhà nước là một tổ chức trong số đó, nó là một hình thức tổ chức của xã hội có giai cấp. Nhà nước là một tổ chức được thành lập để quản lý đất nước, song khác với các tổ chức khác như công đoàn, đoàn thanh niên… nhà nước là tổ chức đại diện chính thức cho xã hội, thay mặt xã hội để duy trì trật tự xã hội, giữ cho xã hội ổn định và phát triển.

Trong Hiến pháp Việt Nam “nước” và “nhà nước” là hai thực thể luôn gắn bó chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Chẳng hạn, Điều 101 quy định: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”; Điều 134 Hiến pháp quy định: “Tòa án nhân dân tối cao” là một cơ quan của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng lại là “cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” nên khi xét xử Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứ không phải nhân danh Nhà nước… Như vậy, chúng ta thấy Hiến pháp quy định nhiều thứ của “nước” ở phương diện này, nhưng đồng thời lại là của “nhà nước” ở phương diện khác và ngược lại. Nhà nước được thành lập và tồn tại trên một lãnh thổ (vùng đất) với những dân cư nhất định, còn “nước” gồm lãnh thổ và dân cư thuộc về một “nhà nước” nhất định. Tuy vậy, nếu quy định Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước dễ dẫn đến bị hiểu nhầm và đánh giá không hết những giá trị to lớn của Hiến pháp không chỉ đối với Nhà nước mà còn đối với xã hội. Chưa kể là cũng vì cho rằng Hiến pháp “chỉ” là luật cơ bản của Nhà nước nên trong nội dung của Hiến pháp có nhiều quy định theo hướng đề cao vai trò của Nhà nước so với nước (nhân dân), xem nhẹ vai trò của nhân dân (nước) trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp. Chẳng hạn, các quy định như: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp (Điều 83); Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn: Làm hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp (Khoản 1 Điều 84); Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật… (Khoản 2 Điều 84); “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp” (Điều 147)...

Theo tên gọi thì Hiến pháp phải hiểu là của Nước tức là của nhân dân (Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hay nói tắt là Hiến pháp Việt Nam). Hiến pháp của nước (nhân dân) nên Hiến pháp phải là văn bản đặc biệt thể hiện một cách tập trung nhất ý chí và những lợi ích cơ bản của nhân dân Việt Nam trên các lĩnh vực của đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Vì vậy, Nhà nước, các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp tức là tôn trọng và chấp hành ý chí của nhân dân (tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, Nhà nước và các tổ chức khác chỉ là những thiết chế thực hiện quyền lực của nhân dân). Những cơ quan nhà nước nếu không được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp thì có nghĩa là họ đã vượt quá những nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân giao cho, nếu họ ban hành các văn bản pháp luật không phù hợp với Hiến pháp, trái Hiến pháp tức là trái với ý chí của nhân dân, không tuân theo ý chí của nhân dân (4). Không chỉ đòi hỏi Nhà nước phải tôn trọng và thực hiện nghiêm minh Hiến pháp, nhân dân còn đòi hỏi tất cả các tổ chức phi nhà nước khác (tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội…) cũng phải tôn trọng và thực hiện nghiêm minh Hiến pháp. Tinh thần này được thể hiện ở Điều 12 Hiến pháp nước ta: “Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật”.

Từ những phân tích trên cho thấy để thể hiện đúng tinh thần chủ quyền nhân dân, nâng cao giá trị, vị trí, vai trò của Hiến pháp chúng tôi cho rằng nên thể hiện chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp như sau:

1. Khẳng định lại tinh thần là: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”.

Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và thông qua các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước đại diện cho ý chí và nguyên vọng của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, hoạt động vì lợi ích của nhân dân”.

Sở dĩ chúng tôi đề nghị quy định như vậy, là vì, theo chúng tôi:

- Thứ nhất, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua tất cả các cơ quan nhà nước chứ không chỉ thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân.

- Thứ hai, ngoài hình thức sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước thì nhân dân còn có thể trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước thông qua việc phúc quyết (trưng cầu ý dân). Nếu nhân dân chỉ sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước (hình thức dân chủ đại diện) thì hình thức dân chủ trực tiếp bị ảnh hưởng, chủ quyền nhân dân bị hạn chế.

- Thứ ba, tất cả các cơ quan nhà nước đều đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân và đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và vì lợi ích của nhân dân chứ không chỉ có Quốc hội và Hội đồng nhân dân.

2. Đối với Nhà nước nên quy định như sau:

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước”.

Sở dĩ chúng tôi đề xuất như vậy là vì những lý do sau:

- Thứ nhất, việc quy định Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã thể hiện chủ quyền nhân dân. Bởi: “Nhà nước của nhân dân” được lý giải là tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, thuộc về nhân dân. Các cơ quan nhà nước nhận quyền từ nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước; “Nhà nước do nhân dân” được lý giải là nhân dân tổ chức thành nhà nước. Cụ thể là nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp lập ra các cơ quan nhà nước và cũng chính đại diện của nhân dân làm việc trong các cơ quan nhà nước; “Nhà nước vì nhân dân” được lý giải là mọi hoạt động của nhà nước đều vì lợi ích và nhằm phục vụ nhân dân. Do vậy, việc quy định thêm: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” là không cần thiết. Nếu giữ lại quy định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” thì nên bỏ quy định: “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Tuy nhiên, quy định: “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” thì hay hơn và đầy đủ hơn.

- Thứ hai, việc bổ sung yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước là vô cùng cần thiết khi xây dựng nhà nước pháp quyền và điều này cũng phù hợp với tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI là “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (5).

- Thứ ba, quyền lực nhà nước có thể phân ra thành ba loại quyền lực là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, nhưng cũng có thể phân ra thành nhiều loại quyền nữa như quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và quyền nguyên thủ quốc gia, quyền giám sát… Chẳng hạn, nếu trong Hiến pháp có quy định thêm thiết chế kiểm toán nhà nước thì có nhiều ý kiến không xếp nó vào các quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, mà nên để nó độc lập với ba quyền nói trên. Do vậy, nếu viết chung chung là thực hiện quyền lực nhà nước thì sẽ khái quát hơn.

3. Bỏ chữ “là luật cơ bản của Nhà nước” trong Điều 146, chỉ cần quy định: “Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực pháp lý cao nhất, mọi văn bản pháp luật khác do các cơ quan nhà nước Việt Nam ban hành đều không được trái với Hiến pháp.

Trong những trường hợp có sự mâu thuẫn giữa quy định của các văn bản pháp luật khác với các quy định của Hiến pháp thì thực hiện theo quy định của Hiến pháp, nếu văn kiện của các tổ chức, đoàn thể xã hội có nội dung trái với Hiến pháp thì phải thực hiện quy định của Hiến pháp”.

Việc quy định như vậy sẽ tránh được sự hiểu lầm là Hiến pháp chỉ là luật cơ bản của Nhà nước, không thấy hết bản chất, nội dung rộng lớn của Hiến pháp với tư cách là “luật” của nhân dân. Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và năm 1959 không quy định Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, chỉ bắt đầu từ Hiến pháp Việt Nam năm 1980 và 1992 mới có quy định trên.

4. Bổ sung thêm quyền phúc quyết của nhân dân đối với Hiến pháp, đề cao chủ quyền nhân dân thì chủ thể quyết định cuối cùng về nội dung của Hiến pháp phải là nhân dân dưới hình thức trưng cầu ý dân. Do vậy, có thể sửa đổi Điều 147 như sau:

Việc sửa đổi Hiến pháp do nhân dân hoặc Quốc hội quyết định.

Những nội dung sửa đổi trong Hiến pháp sau khi đã được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội tán thành, thì phải đưa ra tổ chức trưng cầu ý dân” hoặc nên sửa theo phương án là: “Việc sửa đổi Hiến pháp do nhân dân hoặc Quốc hội quyết định.

Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội tán thành và có ít nhất quá nửa số tổng số cử tri cả nước tán thành thông qua trưng cầu ý dân”.

Do vị trí và tính chất đặc biệt của Hiến pháp và điều kiện hiện nay ở nước ta, dân trí đã được nâng cao, dân chủ được mở rộng và củng cố thì cần có thủ tục nhân dân bỏ phiếu trưng cầu về Hiến pháp, nghĩa là, sau khi được Quốc hội chính thức thông qua, thì bản Hiến pháp cần được đưa ra trưng cầu ý dân để cử tri cả nước biểu thị ý chí của mình đối với nội dung bản Hiến pháp hoặc chí ít là những vấn đề quan trọng, còn nhiều tranh luận được quy định trong Hiến pháp như vấn đề sở hữu đối với đất đai...

5. Không bó hẹp nội dung của Hiến pháp, nội dung của Hiến pháp ngoài việc quy định các vấn đề của Nhà nước còn cần quy định các vấn đề quan trọng của quốc gia như chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội... của đất nước.

Khi quy định các vấn đề liên quan đến xã hội, đến nhân dân thì không nên theo mô típ là nhà nước thế này, nhà nước thế nọ. Có thể nói rằng, Hiến pháp năm 1980 và năm 1992 đã quá nhấn mạnh đến Nhà nước và quá đề cao vai trò của Nhà nước nên thường quy định: Nhà nước… Chẳng hạn, “Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài…” (Điều 35) hay “Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực…” (Điều 15). Việc quy định như vậy là nhấn mạnh quá mức vai trò của Nhà nước. Theo tinh thần chủ quyền nhân dân, Hiến pháp của nước (của nhân dân) thì nên quy định theo cách không có chủ ngữ hoặc chủ ngữ ở đây là ngầm hiểu là nhân dân quy định chứ không phải Nhà nước quy định. Chẳng hạn, “Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường… có nhiều thành phần và nhiều chế độ sở hữu…”. Còn những gì thuộc thẩm quyền của Nhà nước (Nhà nước quy định) thì sẽ được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật khác. Cách thức quy định như vậy, mới thể hiện được tinh thần Hiến pháp (của) nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chứ không chỉ là luật cơ bản của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này cũng thể hiện tinh thần Nhà nước quản lý xã hội, Đảng lãnh đạo xã hội, còn nhân dân mới thực sự là chủ của đất nước.

Tóm lại, việc đề cao chủ quyền nhân dân thì phải được thể hiện một cách chính xác trong Hiến pháp, nếu không chính nội dung các quy định của Hiến pháp đã mâu thuẫn với nhau và vô tình đã hạn chế chủ quyền nhân dân. Việc sửa đổi lại một số quy định liên quan đến chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt, nhằm bảo đảm chủ quyền nhân dân, quyền lực tối cao của nhân dân, tôn trọng ý chí và nguyện vọng của nhân dân; mặt khác, cũng là xác định đúng bản chất, tầm quan trọng của Hiến pháp nhằm bảo đảm tinh thần thượng tôn Hiến pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật quốc gia, tạo điều kiện cho sự phát triển và hoàn thiện pháp luật, làm cơ sở để thiết lập trật tự pháp luật, trật tự xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền, xây dựng, củng cố xã hội công dân, xã hội dân sự, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước./.

--------------------------------------------------------------
(1) Nguyễn Đình Lộc, “Sự ra đời và phát triển của hiến pháp trong lịch sử”, Giáo trình luật hiến pháp Việt nam, Đại học luật Hà Nội, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1996, tr. 77.
(2) Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 2003, tr.746.
(3) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2011, tr.35.
(4) Xem, Nguyễn Minh Đoan, Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp 2002.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr.247.