Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để tạo chuyển biến cơ bản trong giáo dục Việt Nam

Nguyễn Thường Lạng PGS, TS, Trường Đại học Kinh tế quốc dân
22:28, ngày 13-08-2012
TCCSĐT - Trong điều kiện chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nền giáo dục Việt Nam đang có những cơ hội, nhưng cũng gặp phải không ít thách thức. Đây là thời điểm cực kỳ quan trọng cần được tận dụng triệt để nhằm tiếp tục đổi mới hệ thống giáo dục Việt Nam theo xu hướng chung của thế giới.

Một số vấn đề chung về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế

Tính chủ động trong hội nhập là trạng thái của chủ thể tiếp nhận tác động hội nhập để vận động với lộ trình tối ưu theo mục tiêu đặt ra. Tính chủ động thể hiện ở việc chủ thể xác định rõ ràng, phù hợp và đúng thời điểm mục tiêu cần đạt được, xây dựng chiến lược, kế hoạch và chương trình cụ thể để bảo đảm tiến trình vận hành hiệu quả của tổ chức, cá nhân, ngành, địa phương và quốc gia trong cả thời kỳ dài cũng như từng khoảng thời gian nhất định. Đồng thời, tính chủ động còn thể hiện ở việc đổi mới đồng bộ bên trong, chuẩn bị kỹ lưỡng các tiền đề và điều kiện để đón nhận cơ hội và sẵn sàng thích nghi với thách thức. Việc dự báo trước tình hình, nghiên cứu kỹ lưỡng những yêu cầu và tính phức tạp của hội nhập, lường tính trước rủi ro, khó khăn và thách thức, chuẩn bị các nguồn lực để thích nghi với tình hình là sự thể hiện cụ thể của tính chủ động. Tính chủ động trong hội nhập còn được bộc lộ ở năng lực tự chủ, độc lập trong suy nghĩ và hành động, sự sáng tạo và nhạy bén, khả năng đi trước và đón đầu, tính tiên phong và kịp thời, mức độ khẩn trương, khả năng kết nối quan hệ của các chủ thể trong quá trình phát triển khi xuất hiện đủ các yếu tố cần thiết. Động lực thúc đẩy việc gia tăng tính chủ động trong hội nhập là những khoản lợi ích to lớn, thậm chí vô tận do hội nhập mang lại và khả năng giảm thiểu sự tụt hậu để tạo bước phát triển đột phá. Tính chủ động còn cho thấy khả năng lường trước được các loại rủi ro trong hội nhập để phòng ngừa, né tránh hoặc giảm thiểu đến mức tối đa.  

Tính tích cực trong hội nhập là khía cạnh thể hiện khả năng tạo ra những tác động tích cực và lâu dài trong quá trình hội nhập của các chủ thể quốc gia, ngành, tổ chức, cơ sở hoặc cá nhân. Tính tích cực còn phản ánh ở việc các chủ thể triệt để tiếp nhận và khai thác tác động tích cực đồng thời với việc sàng lọc, loại bỏ các tác động tiêu cực của hội nhập để chuyển hoá tác động tích cực thành nội lực phát triển lâu dài, giảm thiểu thậm chí làm vô hiệu hoá các tác động tiêu cực, tận dụng mọi cơ hội để vượt qua thách thức. Các tác động tích cực của hội nhập có thể thấy ở việc tiếp cận kịp thời và nhanh chóng các nguồn lực tiên tiến về công nghệ, nguồn nhân lực, nguồn vốn và động lực vận động của nền kinh tế toàn cầu để mở rộng thị trường, đổi mới sự vận hành, cải thiện năng lực cạnh tranh… và những lợi thế so sánh được bộc lộ. Đồng thời, tính tích cực còn thể hiện ở việc các chủ thể chủ động huy động triệt để mọi nguồn lực, dồn hết “tâm trí và sức lực” đạt mục tiêu đặt ra trong hội nhập với những ràng buộc ngặt nghèo về điều kiện thực hiện cả bên trong và bên ngoài. Tính tích cực còn đòi hỏi mức độ thường xuyên và liên tục, không gián đoạn hoặc chần chừ, do dự của các chủ thể trong khai thác các nguồn lực để phục vụ mục tiêu đặt ra đặc biệt là sự nắm bắt nhanh nhạy các cơ hội xuất hiện. Tính tích cực là một trạng thái có lợi để chủ thể đưa ra những dự báo hoặc những kịch bản lạc quan nhằm đầu tư nhiều hơn cho tương lai và là động lực thúc đẩy chủ thể luôn luôn năng động, nhạy bén và kịp thời trong suy nghĩ và hành động. Tính tích cực còn phản ánh cả tính trách nhiệm và mức độ toàn diện của quá trình hội nhập. Trong trường hợp môi trường trong nước và quốc tế vận động khó lường, tính tích cực còn thể hiện mức độ sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm của các quyết định được đưa ra của các chủ thể.        

Giữa tính chủ động và tích cực trong hội nhập có mối quan hệ qua lại và bổ sung cho nhau. Sự tương tác qua lại giữa chúng tạo nên trạng thái của chủ thể và định vị giá trị của chủ thể trong hệ thống giá trị của hội nhập trong đó chủ động là điều kiện cần để định hình nhanh chóng và đúng mục tiêu cần đạt được trong sự ràng buộc của vị thế và quan hệ, còn tích cực là điều kiện đủ để đạt được mục tiêu. Tính chủ động phản ánh tổng thể mức độ nhận thức về lợi ích thu được từ hội nhập, còn tính tích cực phản ánh năng lực hành động của các chủ thể để triệt để khai thác các khoản lợi ích được nhận thức, và để sự chủ động được hiện thực hoá. Quá trình hội nhập quốc tế càng sâu sắc và toàn diện càng thúc đẩy tính chủ động và tích cực của các chủ thể. Tiếp đến, việc gia tăng tính chủ động và tích cực hội nhập góp phần làm tăng thêm mức độ hội nhập tích cực. Hay nói cách khác, hội nhập quốc tế vốn là một quá trình mang bản chất chủ động và tích cực. Giữa tính tích cực và chủ động có những yếu tố chung và tính chủ động phản ánh cả trạng thái tích cực cũng như tính tích cực phản ánh trạng thái chủ động. Cả hai thuộc tính này đặt ra yêu cầu phải có sự sàng lọc và lựa chọn kỹ lưỡng các tác động trong hội nhập để bảo đảm hiệu quả cao nhất. Hội nhập chủ động và tích cực góp phần thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục ở phạm vi rộng hơn và quy mô lớn hơn.

Hệ thống giáo dục Việt Nam cần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế

          Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, nền giáo dục Việt Nam có nhiều tiến bộ vượt bậc cả về quy mô, chất lượng và hiệu quả. Cơ quan quản lý giáo dục đã được thống nhất giữa Bộ Giáo dục với Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp thành Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo dục Việt Nam có tính chất của một “nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”. (Điều 3, Luật Giáo dục). Đồng thời, nền giáo dục Việt Nam vận hành dựa trên nguyên lý cơ bản “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” (Điều 3, Luật Giáo dục). Tính chất và nguyên lý cơ bản của nền giáo dục Việt Nam cho thấy nền giáo dục Việt Nam là một nền giáo dục mang bản chất nhân văn và giai cấp sâu sắc. Đồng thời, đây là một nền giáo dục có những đặc thù Việt Nam, có tính kế thừa và tiếp nhận những giá trị dân tộc và nhân loại. Tuy nhiên, đối với Luật Giáo dục trước năm 2010, vấn đề hội nhập quốc tế trong giáo dục chưa được đề cập thoả đáng, mặc dù đây là một vấn đề không thể thiếu đối với sự phát triển đất nước. Sau khi sửa đổi, Luật Giáo dục 2010 đã bổ sung khía cạnh này là “Chương trình giáo dục… phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế” (Điều 6, Luật Giáo dục). Điều này cho thấy quá trình ban hành các quy định pháp luật về hội nhập giáo dục còn chậm hơn so với những thay đổi và yêu cầu của thực tiễn nếu chưa nói là còn thụ động và thiếu tích cực mặc dù chủ trương “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới” đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ kể từ Đại hội VI (1986).

Bên cạnh các trường công lập tại Việt Nam còn có trường ngoài công lập như bán công, dân lập, tư thục… và các chi nhánh của các cơ sở đào tạo nước ngoài mở tại Việt Nam hoặc các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài kể cả những chương trình đào tạo được Việt Nam đưa ra nước ngoài thực hiện. Về số cơ sở đào tạo đại học và trên đại học, Việt Nam đã có tới con số khoảng 300 đó là chưa kể đến các cơ sở đào tạo hay chương trình đào tạo liên kết với nước ngoài tại Việt Nam của các đối tác châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản... Số lượng các trường công lập tăng nhanh hơn so với trường ngoài công lập thể hiện phần đầu tư của nhà nước đối với giáo dục có sự tăng lên đáng kể, đó cũng là những thành công bước đầu của chủ trương xã hội hoá giáo dục. Tuy nhiên, số lượng các chi nhánh hoặc các cơ sở giáo dục nước ngoài hoạt động tại Việt Nam chưa được thống kê và công bố chính thức cũng như số lượng học sinh, sinh viên Việt Nm đi làm việc, đầu tư, kinh doanh hoặc học tập, đào tạo và nghiên cứu ở nước ngoài cũng chưa được chính thức thống kê đầy đủ và công bố rộng rãi.

Hệ thống giáo dục Việt Nam những năm gần đây có nhiều chuyển biến quan trọng cả về chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy, số lượng và chất lượng cũng như quy mô, tính liên thông với nền giáo dục thế giới và có không ít cơ sở đào tạo có định hướng đạt đẳng cấp quốc tế. Nhiều chương trình đào tạo từ các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến đã được đưa vào Việt Nam.

Hệ thống giáo dục Việt Nam thường chịu tác động của những hoạt động mang tính phong trào. Trong kháng chiến có phong trào “tiếng hát át tiếng bom”, phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt”. Trong quá trình hội nhập, phong trào “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn và không đáp ứng nhu cầu xã hội”. Những phong trào này nhằm mục đích “chặn đứng” quán tính suy giảm chất lượng giáo dục, đặc biệt là xu hướng không bảo đảm chất lượng thực chất có khả năng để lại những hệ luỵ lâu dài đối với xã hội...Tuy nhiên, những phong trào này vẫn  chưa đem lại cách tiếp cận mới mang tính cơ bản đối với hệ thống giáo dục Việt Nam trong hội nhập, đặc biệt bệnh thành tích gần như mang tính “thâm căn, cố đế”.

Nhiều cơ sở đào tạo đã chủ động liên kết với nước ngoài để cung ứng dịch vụ giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế cả dạy nghề, cao đẳng, đại học và sau đại học…bằng các kênh xây dựng chương trình, hoàn thiện nội dung, đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, các hoạt động hội thảo khoa học, phối hợp nghiên cứu đào tạo, trao đổi sinh viên… Chương trình 322 của Bộ Giáo dục và Đào tạo:  “Đào tạo cán bộ khoa học – kỹ thuật ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” bắt đầu từ năm 2000 đã mang lại những kết quả bước đầu đối với việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên theo những tiêu chuẩn quốc tế… Nhiều học sinh, sinh viên nước ngoài đã đến học tập tại Việt Nam nhưng chủ yếu tập trung vào các môn khoa học xã hội.

Cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo đã được đầu tư nâng cấp theo hướng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế với chủ trương xã hội hoá giáo dục và sự phát triển kinh tế nhiều thành phần, mở cửa thị trường dịch vụ giáo dục trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Các cam kết của Việt Nam đã cho phép các cơ sở và giáo viên nước ngoài tham gia giảng dạy ở Việt Nam. Thậm chí việc nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư với dự án trong dịch vụ giáo dục với tỷ lệ sở hữu 100%. Nhiều chương trình tiên tiến được đưa vào các cơ sở đào tạo và đạt được những kết quả khả quan nhờ các tác động về mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp và sản phẩm của quá trình đào tạo.

Như vậy, quá trình hội nhập quốc tế trong giáo dục của Việt Nam thời gian qua tạo khả năng so sánh, đối chiếu giữa hệ thống giáo dục Việt Nam với các nước có nền giáo dục phát triển cao về chương trình, nội dung, giáo trình, tư liệu, thông tin, dữ liệu, phương pháp giảng dạy. Hội nhập tạo điều kiện để đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp, giáo trình, cập nhật thông tin, tư liệu, thiết bị… của hệ thống giáo dục Việt Nam với thế giới. Đây là căn cứ để đánh giá khách quan hơn thực trạng hệ thống giáo dục trước những yêu cầu khắt khe của hội nhập và mục tiêu tạo khâu đột phá để cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia; là căn cứ để hoàn thiện tổng thể hệ thống giáo dục Việt Nam bằng cách chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Lộ trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của giáo dục Việt Nam

“Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam… Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế…”(1). Việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả tăng trưởng, đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải có hệ thống giáo dục tương xứng.

Ở Việt Nam, sự nghiệp giáo dục và đào tạo là sự nghiệp “trồng người” cho nên cần có một khoảng thời gian dài để đạt mục tiêu đặt ra và điều này có thể kéo dài tới trăm năm như Bác Hồ đã dạy “Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Trước mắt, việc đầu tư giáo dục để giải tỏa một trong 3 điểm “nghẽn” của tăng trưởng kinh tế cần được ưu tiên hàng đầu là nguồn nhân lực chất lượng cao và điều này có tác động lâu dài cũng như có khả năng lan tỏa đến nhiều lĩnh vực. Hội nhập chủ động và tích cực cần có lộ trình cụ thể để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện ràng buộc chặt chẽ về thời gian và nguồn lực với tầm nhìn dài hạn. Phương châm hội nhập chủ động và tích cực là “kết hợp đồng thời đổi mới quyết liệt và tái cấu trúc hệ thống giáo dục theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế để phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Theo cách xem xét đó, lộ trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của giáo dục Việt Nam bao gồm các giai đoạn có mối quan hệ qua lại với tầm nhìn ít nhất là 30 năm.

Giai đoạn 2011-2020: Thực hiện đổi mới quyết liệt và tái cấu trúc hệ thống giáo dục, trước hết với các trường trọng điểm quốc gia thuộc các cấp đào tạo theo những tiêu chuẩn và thông lệ của các trường có đẳng cấp trung bình trong khu vực và tạo tiền đề để tiến đến tiêu chuẩn quốc tế. Đây là giai đoạn rất cần sự học hỏi kỹ lưỡng và sàng lọc cẩn thận kinh nghiệm quốc tế về chương trình, nội dung, giáo trình, tư liệu, dữ liệu, phương pháp giáo dục và phương pháp tổ chức hệ thống giáo dục. Khuyến khích các cơ sở giáo dục sử dụng các chương trình giáo dục tiên tiến và ứng dụng những nghiên cứu mới trong giáo dục vào thực tiễn. Cần coi trọng hơn nữa công tác xã hội hoá giáo dục và đề cao tính tự chủ của các cơ sở đào tạo với cơ chế huy động nguồn lực và sàng lọc nghiêm ngặt, chặt chẽ chất lượng giáo dục để tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng. Đây cũng là giai đoạn vừa từng bước chuẩn bị đội ngũ giáo viên đạt trình độ cao theo tiêu chuẩn quốc tế, vừa chuyển đổi triệt để chương trình, nội dung, phương pháp… theo hướng hội nhập quốc tế chủ động và tích cực. Các chiến lược, chính sách và quy định cần được bổ sung, hoàn thiện theo những tiêu chuẩn khu vực và định hướng đến tiêu chuẩn và đẳng cấp quốc tế. Lấy mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển đổi mô hình tăng trưởng làm ưu tiên hàng đầu đối với lĩnh vực giáo dục.

Giai đoạn 2021-2030: Thực hiện việc đổi mới và tái cấu trúc cả hệ thống giáo dục trong đó những cơ sở giáo dục đạt đẳng cấp trung bình cần vươn lên tiếp cận đến đẳng cấp quốc tế còn các cơ sở giáo dục khác cần có sự đổi mới và tái cấu trúc theo hình mẫu của các trường điểm hoặc trọng điểm đã thực hiện thành công mục tiêu vươn tới đẳng cấp quốc tế. Đây là giai đoạn cần có sự huy động nguồn lực lớn cả từ phía Nhà nước, xã hội, nhà đầu tư trong và ngoài nước… Khuyến khích các cơ sở giáo dục thu hút người học từ nước ngoài và tỷ lệ học sinh, sinh viên quốc tế ở những cơ sở đào tạo đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế cần chiếm tỷ lệ khoảng 30-35% và đây được coi như là tiêu chuẩn kiểm định cao nhất sự thành công của quá trình đổi mới quyết liệt và tái cấu trúc toàn diện cơ sở giáo dục. Có một số cơ sở giáo dục có thể tham gia vào mạng lưới các trường đại học có danh tiếng trong khu vực và thế giới hoặc tham gia trực tiếp vào quá trình cạnh tranh quốc tế về giáo dục như thu hút giáo viên giỏi, học sinh và sinh viên xuất sắc về học tập, nghiên cứu... Biên soạn, phát triển các loại sách giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo và chuyên khảo, cơ sở dữ liệu đạt đẳng cấp khu vực và tiến tới tiêu chuẩn quốc tế, tiến tới “xuất khẩu” các loại tài liệu và dữ liệu này hoặc cung ứng dịch vụ giáo dục đạt đẳng cấp quốc tế.  

Giai đoạn 2031-2040: Tiếp tục quá trình đổi mới và tái cấu trúc hệ thống giáo dục để hình thành được một số cơ sở giáo dục đạt đẳng cấp cao trong khu vực và thế giới với những thành công trong nghiên cứu và đào tạo đội ngũ sinh viên có vị trí quan trọng trong bộ máy quản lý, hệ thống chính trị, các doanh nghiệp, tập đoàn kinh doanh, cơ sở nghiên cứu… Hình thành được đội ngũ chuyên gia đầu ngành để tăng khả năng thu hút nhân tài của các nước và thúc đẩy giao lưu đào tạo giữa Việt Nam với các nước. Xây dựng được một số cơ sở đào tạo và nghiên cứu các chuyên ngành có tính đặc thù và bản sắc độc đáo của Việt Nam có khả năng là điểm đến cũng như điểm thu hút mạnh các nhà khoa học đầu ngành hoặc có danh tiếng, nhà giáo dục và sinh viên chất lượng cao… của khu vực và thế giới đến để hợp tác và làm việc lâu dài./.  



(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 77