Những nội dung mới về bảo vệ môi trường theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
TCCS - Nếu Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã 10 lần nhắc đến vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường, thì Văn kiện Đại hội XI của Đảng có tới hơn 20 lần nhắc đến vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường. Điều này cho thấy, quan điểm của Đảng ta về vấn đề môi trường đã có sự đổi mới và mở rộng hơn trước.
Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XI là: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo và ứng phó với sự biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên. Tăng cường quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia”(2).
Từ quan điểm trên, trong những năm tới, để BVMT chúng ta cần khẳng định rõ và phải làm tốt những nội dung chính và mới được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng
như sau:
Một là, “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”(3). Nếu Đại hội X xác định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với kinh tế tri thức, chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta, để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức(4) thì đến Đại hội XI, quan niệm về đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đã có thêm bước phát triển mới, đó là phải trên cơ sở bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở nước ta, thực chất là công nghiệp hóa rút ngắn, bằng cách kết hợp nguồn vốn tri thức tiên tiến của nhân loại với nguồn vốn tri thức của dân tộc. Trên cơ sở đó, một mặt, sử dụng tri thức để đổi mới, nâng cao hiệu quả các ngành truyền thống; mặt khác, tập trung phát triển mạnh các ngành nghề, tạo ra sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức, tạo ra những bước đột phá mới, những mức tăng trưởng cao. Như vậy, CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức là bước đi đúng, phù hợp với thực tiễn nước ta và phù hợp với xu thế phát triển của thế giới trong giai đoạn hiện nay. CNH, HĐH sẽ không thể thực hiện được, nếu như không dựa vào môi trường, vào tài nguyên thiên nhiên. Bất kể giai đoạn nào cũng vậy, dù trình độ phát triển của con người có cao đến mức nào, khoa học công nghệ có phát triển vượt bậc đến đâu, con người cũng không thể tồn tại được nếu không có mối quan hệ ràng buộc với điều kiện tự nhiên, với môi trường, mà thậm chí, con người càng cần phải thắt chặt hơn sự liên hệ của mình với môi trường. Tùy theo mức độ, trình độ, ý thức của con người, những tác động của CNH, HĐH đến môi trường sẽ khác nhau. Trong những năm tới tiến hành đẩy mạnh CNH, HĐH phải gắn với phát triển kinh tế tri thức, sử dụng tiết kiệm nhiên liệu nhằm bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, “gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với… bảo vệ môi trường”(5). Phát triển kinh tế là điều kiện cốt yếu để con người thoát khỏi đói nghèo, nhằm phát triển con người toàn diện và là cơ sở để xây dựng xã hội văn minh, hiện đại. Hiện đang có một nghịch lý là phát triển kinh tế thường đi kèm với việc khai thác (thậm chí là khai thác quá mức) tài nguyên thiên nhiên và thải vào môi trường một lượng lớn chất thải độc hại khiến cho nó không còn khả năng tự phục hồi, gây ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu. Điều đó ảnh hưởng đến chất lượng sống của con người, mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, phát triển con người toàn diện sẽ không đạt được. Trước tình hình đó, chúng ta cần tỉnh táo khi ra những quyết sách cho phát triển kinh tế cũng như cho việc BVMT. Bởi vì, một chính sách về môi trường, nếu chỉ tập trung vào việc bảo vệ tài nguyên mà không chú ý giải quyết thỏa đáng những vấn đề nhằm phát triển kinh tế thì vừa không giảm được nghèo đói, vừa không thể bảo vệ được môi trường. Ngược lại, một chính sách phát triển chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế, không quan tâm đến môi trường thì sớm hay muộn cũng lâm vào cảnh phải bỏ tiền ra để khôi phục môi trường và lại dẫn đến đói nghèo. Việt Nam là một nước còn nghèo, tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé, vì vậy, tài nguyên thiên nhiên càng đóng vai trò đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế. Do đó, Đại hội XI của Đảng khẳng định, chúng ta phải có chính sách phù hợp để phát triển kinh tế gắn liền với BVMT, cần có sự kết hợp cân đối, hài hòa giữa ba nội dung là: phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội và BVMT, phải xem BVMT là một nội dung quan trọng, không thể tách rời trong quá trình phát triển kinh tế và không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá mà coi nhẹ công tác BVMT. Việc lồng ghép yếu tố môi trường trong các chiến lược, kế hoạch và dự án phát triển kinh tế của các cấp, các ngành phải được quan tâm đúng mức và thực hiện một cách nghiêm túc. Để thực hiện tốt nhiệm vụ gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với BVMT trong những năm tới, Đại hội XI của Đảng yêu cầu, cần: “Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch”(6); đẩy mạnh hơn nữa công tác BVMT thông qua đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường, triển khai mạnh mẽ hơn nữa các nhiệm vụ BVMT ở lưu vực sông, các khu kinh tế, khu công nghiệp, làng nghề.
Ba là, “Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên”(7). Những năm gần đây, các nước trên thế giới và Việt Nam đang chứng kiến những biến đổi khí hậu, những thảm họa môi trường xuất hiện ngày càng nhiều với mức độ ảnh hưởng ngày càng lớn. Trên thế giới, điển hình là cơn địa chấn ở Thái Bình Dương gây sóng thần ở Đông Nam Á và Đông Á ngày 26-12-2004, làm 200.000 người chết và mất tích. Trận động đất ở Tứ Xuyên (Trung Quốc) ngày 12-5-2008 đã làm trên 80.000 người chết. Gần đây nhất là thiệt hại do sóng thần, động đất ở Nhật Bản ngày 11-3-2011. Hãng tin AFP (dẫn theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới) cho biết sáng ngày 21-3-2011, số người thiệt mạng đã lên đến 8.450 người, 12.931 người khác mất tích, tổng thiệt hại lên đến 300 tỉ USD, tương đương 4% GDP của Nhật Bản. Nhưng thiệt hại lớn nhất chưa thể thống kê hết được là ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Còn ở nước ta, các hiện tượng khí hậu cực đoan như bão, lũ lụt, nắng nóng, mưa lớn, nước biển dâng cao… đang ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân. Chúng ta chưa bao giờ thấy hiện tượng mưa lớn ngập lụt trái mùa như ở Hà Nội tháng 11-2008 hay hiện tượng mưa kéo dài 3 - 4 ngày gần bằng lượng mưa của cả năm như ở miền Trung trong năm 2010 vừa qua. Hằng năm, nước ta phải hứng chịu hàng chục cơn bão, mưa lũ bất thường làm thiệt hại hàng ngàn tỉ đồng. Với mực nước biển dự báo sẽ dâng cao gần 1m vào cuối thế kỷ này, 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long bị ngập, 30% diện tích đồng bằng sông Hồng nằm dưới mực nước biển; 10% - 12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP. Vì vậy, trong những năm tới, Nhà nước ta cần đẩy nhanh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, theo hướng giảm ô nhiễm môi trường và thích ứng để sống chung với biến đổi khí hậu, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội và cuộc sống, an sinh của con người. Trước mắt cần tập trung triển khai thực hiện tốt “Chiến lược phát triển ngành khí tượng thủy văn” và “Đề án hiện đại hóa ngành khí tượng thủy văn”, phục vụ công tác dự báo, cảnh báo thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bốn là, xử lý triệt để những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đẩy mạnh cải tạo môi trường. Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều biện pháp nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Trong các văn bản pháp luật về khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, chúng ta đặc biệt chú ý tới Quyết định số 64/2003/
QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 22-4-2003 Về việc phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nội dung của Quyết định chỉ rõ: đến năm 2005 phải xử lý triệt để 51 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; đến năm 2007 tiếp tục xử lý xong 388 cơ sở; đến năm 2012 tiếp tục xử lý xong đối với 3.856 cơ sở gây ô nhiễm môi trường khác và các cơ sở mới phát sinh. Tuy nhiên, tính đến tháng 3-2010 (quá thời hạn gần 3 năm) kết quả đạt được vẫn rất thấp. Trong số 439 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải xử lý dứt điểm trong giai đoạn 2003 - 2007, mới có 87 cơ sở (chiếm 19,85%) đã được cấp chứng nhận hoàn thành việc xử lý ô nhiễm môi trường triệt để; có 27 cơ sở đã giải thể, phá sản, không còn gây ô nhiễm môi trường; 106 cơ sở cơ bản đã hoàn thành, nhưng chưa được cấp quyết định chứng nhận đã hoàn thành; 194 cơ sở đang triển khai xử lý ô nhiễm môi trường triệt để và 25 cơ sở chưa triển khai. Như vậy, tính đến tháng 3-2010 vẫn còn 49,88% số cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chưa hoàn thành việc xử lý ô nhiễm môi trường triệt để. Nguyên nhân chính là do mức độ chấp hành các văn bản pháp luật về khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh thời gian qua rất thấp. Hoạt động kiểm tra, thanh tra quá trình triển khai công tác BVMT chưa thường xuyên; các vi phạm pháp luật về BVMT chưa được xử lý kịp thời và việc cưỡng chế thi hành còn nhiều bất cập. Do vậy, tình trạng suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường ở cả thành thị và nông thôn nước ta đang có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Trong những năm tiếp theo, để bảo vệ và cải thiện môi trường sống của người dân thì “Thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường”(8) là việc làm cần thiết và quan trọng của công tác quản lý nhà nước về BVMT. Nếu không làm tốt công việc này thì tình trạng vi phạm pháp luật BVMT sẽ vẫn diễn ra và đó là nguyên nhân dẫn đến môi trường sống bị hủy hoại.
Năm là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT, đặc biệt là “Quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, nước, khoáng sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác”(9). Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến môi trường nước ta trong những năm qua xuống cấp là do công tác quản lý nhà nước về BVMT còn nhiều yếu kém và bất cập như hệ thống luật pháp, chính sách về BVMT còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, chồng chéo và mâu thuẫn nhau; các văn bản hướng dẫn thi hành một số nội dung của Luật Bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, thiếu cụ thể; một số hành vi vi phạm pháp luật chưa được quy định chi tiết, cụ thể, thậm chí có nhiều hành vi vi phạm còn chưa có chế tài xử phạt; hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, như cơ cấu tổ chức bộ máy chưa tương xứng với nhiệm vụ; chức năng, thẩm quyền của các bộ phận trong hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường chưa rõ ràng; đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ... Vì vậy, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách BVMT là giải pháp hàng đầu để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT. Trước mắt, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về đất đai, trọng tâm là tổ chức tổng kết quá trình thực hiện Luật Đất đai 2003 và xây dựng dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi); tăng cường khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước, bảo đảm an ninh nguồn nước; đưa Luật Khoáng sản (sửa đổi) đi vào cuộc sống, tăng cường đổi mới công tác quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản.
Sáu là, bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và của mọi công dân. Ở nước ta, nhận thức về BVMT của cộng đồng, doanh nghiệp, thậm chí cả của đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý còn chưa đầy đủ. Vấn đề BVMT mới chỉ dừng lại ở chủ trương, chính sách, định hướng, mà chưa tạo ra sự quan tâm thực sự từ phía các nhà hoạch định chính sách. Các doanh nghiệp thường né tránh vấn đề BVMT. Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp trong nước vẫn cho rằng BVMT là công việc của Nhà nước và không ít doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam để trốn tránh trách nhiệm BVMT. Người dân chưa thi hành tốt pháp luật về BVMT do nhận thức sai lệch về vấn đề môi trường. Theo kết quả khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường, có tới 33,9% số người được hỏi cho rằng tài nguyên của Việt Nam là vô tận; 36,9% cho rằng tài nguyên rừng của Việt Nam là vô tận; 27,55% cho rằng chỉ nước mặt mới bị ô nhiễm, còn nước ngầm thì không; 29,2% cho rằng môi trường ở thành phố bị ô nhiễm, còn ở nông thôn thì không. Nhận thức sai lệch trên là một trong những nguyên nhân khiến cho con người có những hành vi không thân thiện với môi trường, vi phạm pháp luật BVMT; hiểu biết của người dân về pháp luật, chính sách BVMT hạn chế, có nhiều quy định về BVMT mà người dân không biết và cán bộ cũng không biết. Điều này tạo ra một khoảng cách xa giữa việc ban hành luật và thực thi luật, hình thành nên tâm lý coi thường luật ở người dân. Việc xóa bỏ tâm lý này không phải là công việc dễ dàng. Theo kết quả khảo sát ở phạm vi hẹp tại Hà Nội về thái độ ứng xử của người dân đối với hành vi thải rác không đúng nơi quy định của người khác, chỉ có 12,2% số người được hỏi tỏ thái độ nhắc nhở, có tới 55,1% không tỏ thái độ gì và 11,25% không chú ý đến hành vi vi phạm đó. Họ cho rằng, đây là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, không phải của họ; cộng đồng tham gia hoạt động BVMT một cách thụ động. Trong khi đó, nhiều cơ quan quản lý nhà nước về môi trường chưa thật sự mạnh dạn trao quyền cho cộng đồng. Kiểu quản lý này làm cho sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động BVMT trở nên bị động, họ chủ yếu chỉ là lực lượng thực hiện các quyết định quản lý được đưa từ trên xuống. Điều này dẫn đến hệ quả là, các quyết định quản lý không sát thực tiễn cuộc sống, còn người dân trở nên thờ ơ và thiếu trách nhiệm giám sát việc thực thi pháp luật BVMT; công tác truyên truyền, giáo dục về môi trường và BVMT chưa tốt. Việc vận động nhân dân tích cực tham gia BVMT, vận động họ tự nguyện thay đổi những thói quen lạc hậu và hình thành những thói quen, nếp sống thân thiện với môi trường chưa được quan tâm đầy đủ. Các hoạt động BVMT do nhà trường tiến hành còn mang nặng tính phong trào, hình thức, không thường xuyên. Tình trạng nhận thức và ý thức BVMT chưa trở thành trách nhiệm của nhiều người đã góp phần làm cho môi trường nước ta ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng. Nhận rõ những bất cập nêu trên, Đại hội XI của Đảng khẳng định: Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân. Điều này cần sớm được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật BVMT của nước ta.
Thực hiện tốt những nội dung trên trong những năm tới, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 là: “Cải thiện chất lượng môi trường. Đến năm 2020, tỷ lệ che phủ rừng đạt 45%. Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh. Các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các cụm, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác hại của thiên tai; chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng”(10)./.
-------------------------------------------------
(1), (2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 93, 42 - 43, 72
(4) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr. 87
(5) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 38
(6), (7) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 78
(8), (9) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 136
(10) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 106
Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII xem xét phạm vi điều chỉnh của Luật tài nguyên nước  (16/12/2011)
Đại sứ Việt Nam ở nước ngoài tăng lập quan hệ nghị viện  (15/12/2011)
Phiên họp thứ tư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIII: Đánh giá cụ thể hiệu quả của các khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu  (15/12/2011)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên