Kinh tế số - cơ hội “bứt phá” cho Việt Nam

Phạm Việt Dũng
TS, Tạp chí Cộng sản
23:20, ngày 06-09-2019

TCCS - Sự phát triển mạnh mẽ của in-tơ-nét và công nghệ được kỳ vọng sẽ tạo ra một nền tảng hỗ trợ cho nền kinh tế số phát triển nhanh và đóng góp ngày càng lớn cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Đây là cơ hội “bứt phá” của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, để tận dụng được cơ hội này phải có các giải pháp đồng bộ và sự nỗ lực từ nhiều phía.

Diễn đàn cấp cao Công nghệ Thông tin - Truyền thông Việt Nam 2019 với chủ đề “Chuyển đổi số vì một Việt Nam hùng cường” được tổ chức tại Hà Nội, ngày 8-8-2019_Ảnh: TTXVN

Kinh tế số: Xu hướng phát triển mới

Thuật ngữ Kinh tế số (digital economy) được dùng khá lâu trước khái niệm Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư (4.0). Tuy nhiên, cùng với sự xuất hiện của CMCN 4.0, xu hướng số hóa hay công cuộc chuyển đổi số thực sự xuất hiện mạnh mẽ ở mọi lĩnh vực, bởi “cốt lõi” của CMCN 4.0 chính là chuyển đổi số, với sự tích hợp của số hóa, kết nối/siêu kết nối và xử lý dữ liệu thông minh. Công nghệ số được ứng dụng trong tất cả các lĩnh vực và ngành kinh tế, từ công nghiệp, nông nghiệp đến dịch vụ; từ sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa đến các yếu tố hỗ trợ, như giao thông vận tải, lô-gi-stic, tài chính, ngân hàng,... Kinh tế số đang dần trở thành chính bản thân nền kinh tế, nội hàm của kinh tế số cũng dần trùng khít với các nội hàm của khái niệm kinh tế.

Có nhiều định nghĩa về kinh tế số. Theo định nghĩa chung của nhóm cộng tác Kinh tế số của Oxford, kinh tế số là “một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua in-tơ-nét”. Kinh tế số đôi khi cũng được gọi là kinh tế in-tơ-nét (internet economy), kinh tế mới (new economy) hoặc kinh tế mạng (web economy). Ngoài ra còn có nhiều định nghĩa khác nữa về kinh tế số. Với sự lan tỏa của “số hóa” vào nền kinh tế thì việc phân định rạch ròi kinh tế số không đơn giản. Tuy nhiên, có thể khái quát, kinh tế số bao gồm các hiện tượng mới nổi, như công nghệ chuỗi khối (blockchain), nền tảng số, phương tiện truyền thông xã hội, doanh nghiệp điện tử (ví dụ như thương mại điện tử, các ngành truyền thống như sản xuất hoặc nông nghiệp có sử dụng công nghệ số hỗ trợ); các doanh nghiệp liên quan đến phát triển phần mềm, ứng dụng, phát triển nội dung số và truyền thông, các dịch vụ và đào tạo liên quan, cùng với các doanh nghiệp tham gia sản xuất và phát triển thiết bị công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông(1). Ở Việt Nam, tại “Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam năm 2019”, kinh tế số được hiểu là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số, và phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới. Trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp sẽ đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh truyền thống sang mô hình theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại đến sử dụng và điều này sẽ làm tăng năng suất cũng như hiệu quả lao động.

Theo thống kê của tạp chí Forbes được thực hiện trong năm 2016, lĩnh vực kinh tế số trên thế giới có giá trị khoảng 3.000 tỷ USD, chiếm khoảng 3,8% giá trị nền kinh tế toàn cầu. Còn tại các quốc gia ASEAN, giá trị này đạt khoảng 150 tỷ USD, tương đương 6% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của các quốc gia thành viên. Dự báo, đến năm 2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế số tại khu vực này sẽ đạt 17% mỗi năm, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của khu vực được dự báo ở mức 9%.

Kinh tế số không chỉ tạo ra quy mô và tốc độ tăng trưởng cho các nền kinh tế, mà còn làm các nền kinh tế thay đổi trên hai bình diện: 1- Phương thức sản xuất (nguồn lực, hạ tầng, cách thức vận hành sản xuất, kinh doanh); 2- Cấu trúc kinh tế. Trong đó, đáng chú ý là bên cạnh các nguồn lực truyền thống xuất hiện nguồn lực phát triển mới là tài nguyên số, của cải số. Quyền lực tài chính đang dần chuyển sang quyền lực thông tin. Sức mạnh của một quốc gia được đo bằng sự phát triển của công nghệ cao, thông tin và trí tuệ con người.

Ngoài ra, kinh tế số cũng giúp tăng trưởng bền vững hơn, bởi công nghệ sẽ cho chúng ta những giải pháp tốt, hiệu quả hơn đối với việc sử dụng tài nguyên, xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường,... Đồng thời, với chi phí tham gia thấp và dễ tiếp cận, kinh tế số cũng tạo ra cơ hội cho nhiều người hơn, mọi thành phần, khu vực, qua đó góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo, giải quyết nhiều vấn đề xã hội thông qua đo lường tâm trạng xã hội, sự tham gia của người dân vào hoạch định chính sách,...

Nhận thức được xu thế đó, hầu hết các nền kinh tế phát triển trên thế giới đều đưa ra chiến lược phát triển công nghệ số, trong đó chú trọng việc nghiên cứu áp dụng công nghệ mới vào tăng trưởng kinh tế.

Mỹ, nơi khởi nguồn cho sự bùng nổ của công nghệ tin học với nhiều công ty nổi tiếng, như Google, Amazon, Facebook, Apple,... tiếp tục nhận thức được tầm quan trọng của thúc đẩy kinh tế số. Châu Âu có kế hoạch “Single Digital Market” (tạm dịch là thị trường số thống nhất), Ô-xtrây-li-a có “Digital Australia”. Hàn Quốc có chiến lược Sáng tạo công nghiệp chế tác 3.0 giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo dựng các quy trình sản xuất tối ưu, thông minh. Trong 10 lĩnh vực then chốt của sáng kiến “Made in China 2025”, Trung Quốc ưu tiên 2 lĩnh vực chính là phát triển công nghệ thông tin, công cụ số và robotics.

Với ASEAN, việc thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế số ước tính có thể giúp GDP của các nước trong khu vực này tăng thêm khoảng 1.000 tỷ USD trong vòng 10 năm tới, nên nhiều nước đang rất quan tâm đến vấn đề này và đã có các giải pháp, cơ quan hỗ trợ phát triển, như Thái Lan đã thành lập Bộ Xã hội và Kinh tế kỹ thuật số để thay thế Bộ Công nghệ thông tin và Truyền thông; Ma-lai-xi-a đặt mục tiêu là giá trị của nền kinh tế số sẽ chiếm 17% tỷ trọng nền kinh tế của nước này; Xin-ga-po với khẩu hiệu “Smart Nation” (quốc gia thông minh) lấy công nghệ làm cốt lõi,...

Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Theo nghiên cứu của Google và Temasek (Xin-ga-po), kinh tế số của Việt Nam đạt 3 tỷ USD vào năm 2015, tăng lên 9 tỷ USD vào năm 2018 và dự báo đạt 30 tỷ USD vào năm 2025. Còn theo một nghiên cứu khác của Tổ chức Data 61, GDP của Việt Nam có thể tăng thêm khoảng 162 tỷ USD trong 20 năm tới nếu chúng ta chuyển đổi số thành công(2). Tuy nhiên, để hiện thực được điều đó có nhiều thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đan xen.

Về thuận lợi và cơ hội

Trước hết, Việt Nam vẫn luôn được đánh giá có môi trường chính trị, xã hội ổn định, cùng với nền tảng vĩ mô được củng cố vững chắc. Việt Nam cũng được đánh giá là một nền kinh tế năng động với khoảng 700 nghìn doanh nghiệp tư nhân. Dân số Việt Nam với gần 100 triệu người đang trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”, được đào tạo tốt, học toán tốt và lao động chăm chỉ; tính cách người Việt Nam thích ứng nhanh với sự thay đổi, thích sử dụng công nghệ.

Việt Nam cũng được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN với hạ tầng viễn thông - CNTT khá tốt, phủ sóng rộng, mật độ người dùng cao. Hiện có khoảng 72% dân số đang sử dụng điện thoại thông minh, 68% số người Việt Nam xem video và nghe nhạc mỗi ngày trên thiết bị di động, có 70% số thuê bao di động đang sử dụng 3G hoặc 4G,... Dựa trên số liệu của tập đoàn Miniwatts Marketing, Việt Nam hiện xếp thứ 13 trong top 20 quốc gia có số dân sử dụng mạng in-tơ-nét đông nhất thế giới. Năm 2018, Việt Nam đạt 41/100 điểm, đứng thứ 14 trong bảng xếp hạng về độ phủ dịch vụ đám mây.

Xu hướng số hóa xuất hiện ở nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, từ thương mại, thanh toán đến giao thông, giáo dục, y tế... và đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế. Hiện có khoảng 30 nghìn doanh nghiệp phần cứng, phần mềm, nội dung số và các dịch vụ viễn thông và công nghệ thông tin (ICT) với tổng doanh thu năm 2017 đạt 91,6 tỷ USD, gấp 12 lần so với năm 2010 (7,6 tỷ USD). Công nghiệp phần mềm với khoảng 10 nghìn doanh nghiệp, có tốc độ tăng trưởng cao (15% - 20%/năm), doanh thu năm 2017 đạt 3,7 tỷ USD. Thương mại điện tử năm 2017 đạt doanh thu khoảng 8 tỷ USD (tăng trung bình 35%/năm), là lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh nhất. Việt Nam có 48 công ty Fintech cung cấp dịch vụ thanh toán tiền gửi và tiền điện tử. Trong kinh doanh nội dung số, công nghiệp quảng cáo trực tuyến đạt doanh thu 390 triệu USD năm 2016, doanh thu trò chơi trực tuyến đạt khoảng 500 triệu USD(3). Hằng năm, có hàng chục nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực số. Nhiều doanh nghiệp đã chứng tỏ được năng lực công nghệ số, thực hiện nhiều dự án công nghệ cao, như xe tự lái, robot,...

Đặc biệt, Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm, sớm có nhiều chủ trương, giải pháp thực hiện CMCN 4.0 và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số. Gần đây nhất có thể kể đến Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 01-7-2014, của Bộ Chính trị khóa XI, về đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết về vấn đề này như Nghị quyết số 41/NQ-CP, ngày 26-5-2016, của Chính phủ, về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 4-5-2017, của Thủ tướng Chính phủ, về tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng công nghiệp 4.0. Tháng 8-2018, Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử được thành lập do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Chủ tịch Ủy ban. Chiến lược về CMCN 4.0 cùng Chương trình hành động về chuyển đổi số đang được nghiên cứu, soạn thảo và sẽ được lồng ghép vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030,...

Tóm lại, đây là cơ sở để Việt Nam tự tin về khả năng chuyển đổi thành công từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số. Và, với lợi thế của người đi sau, đây là cơ hội để chúng ta có thể “đi tắt, đón đầu”.

Về hạn chế, thách thức

Để phát triển kinh tế số có ba yếu tố quan trọng nhất, đó là thể chế, hạ tầng số và nguồn nhân lực. Thể chế của chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế, sự chuẩn bị luôn ở thế bị động. Bên cạnh đó, nhận thức về xu hướng phát triển mới mang tính tất yếu này, về việc cần có chiến lược tiếp cận kinh tế số ở cả cấp độ quản lý nhà nước đến cấp độ doanh nghiệp và của người dân còn chưa cao. Hạ tầng viễn thông, mặc dù là điểm mạnh, nhưng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của kinh tế số. Việt Nam hiện chỉ có 9 trung tâm dữ liệu chuyên dụng cho doanh nghiệp, ít hơn rất nhiều so với các nước láng giềng, như Xin-ga-po, In-đô-nê-xi-a. Còn một vấn đề nữa, Việt Nam nằm trong top 3 quốc gia trên thế giới bị tấn công mạng nhiều nhất trong năm 2018, điều này cho thấy, bảo đảm an toàn, an ninh trong môi trường số cũng là vấn đề quan trọng nếu muốn đưa kinh tế số trở thành một trong những trụ cột chính của nền kinh tế. Nguồn nhân lực, đặc biệt nhân lực công nghệ thông tin - nhân tố quan trọng nhất trong cạnh tranh và phát triển kinh tế số, còn ít về số lượng, chưa bảo đảm về chất lượng.

Ngoài ra, từ góc độ quản lý nhà nước, có những thách thức sau:

Thứ nhất, tính đặc thù của in-tơ-nét là không biên giới, trong đó lãnh thổ và địa lý trở thành tương đối, các doanh nghiệp thậm chí ở nước ngoài có thể kinh doanh ở Việt Nam, điều này đặt ra khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động, trong việc tính và thu thuế. Ngoài ra, nếu chính sách quản lý quá chặt thì với đặc thù có thể kinh doanh xuyên biên giới, các doanh nghiệp nước ngoài, vốn không bị quản lý bởi chính sách của Việt Nam và với tiềm năng tài chính của mình có thể tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước.

Thứ hai, đây là lĩnh vực mới, hệ thống giải quyết tranh chấp cho các hoạt động từ kinh doanh đến dân sự trên môi trường số chưa hoàn thiện nên gây khó khăn cho công tác quản lý không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với mọi quốc gia hiện nay. Cũng như môi trường kinh doanh truyền thống, nếu chúng ta không có môi trường pháp lý tốt để giải quyết tranh chấp thì các doanh nghiệp số sẽ chuyển sang, nơi có điều kiện bảo đảm hơn.

Thứ ba, mạng xã hội là một nền tảng quan trọng cho kinh doanh, là kênh phản hồi quan trọng của người dùng trong nền kinh tế số. Nhưng mạng xã hội cũng đặt ra nhiều thách thức đối với công tác quản lý, đó là việc bảo vệ quyền riêng tư, vấn đề thông tin giả, không chính xác, các phát ngôn cực đoan,...

Còn từ góc độ các doanh nghiệp, có những thách thức sau:

Trước hết, đó là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Quy mô của đa số doanh nghiệp Việt Nam là vừa và nhỏ, thiếu vốn và trình độ công nghệ thấp. Và khi đa số các doanh nghiệp với quy mô nhỏ, sử dụng công nghệ lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ thì rõ ràng đây là rào cản lớn đối với chuyển đổi sang kinh tế số.

Ngoài ra, như đã nói ở trên, khi lãnh thổ và địa lý trở thành tương đối trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp nước ngoài dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này sẽ tạo ra một cuộc cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài ngay tại thị trường Việt Nam. Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp có tên tuổi của nước ngoài, như Lazada, Shopee hay các sàn có vốn đầu tư nước ngoài như Tiki, Sendo..., đều chịu lỗ để thu hút người dùng và giành thị phần trong lĩnh vực thương mai điện tử. Hay trong lĩnh vực vận chuyển, hai cái tên chiếm lĩnh thị trường là Grab và Uber, và sau này có thêm Go-Viet,... Trong các lĩnh vực khác, như cung cấp các dịch vụ lưu trú, lữ hành, vận chuyển, tư vấn và kết nối ẩm thực, giải trí,... cũng đang bị chiếm lĩnh bởi các doanh nghiệp lớn của nước ngoài.

Để kinh tế số trở thành cơ hội “bứt phá” cho Việt Nam

Để phát triển kinh tế số ở Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, sớm ban hành Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số, kinh tế số. Cùng với đó, cần xây dựng và công bố quy hoạch ngành về phát triển và ứng dụng CNTT. Trên cơ sở đó, ban hành các chuẩn trao đổi thông tin giữa các cơ quan, đơn vị để tạo sự liên kết, đồng bộ trong quá trình đầu tư và phát triển hạ tầng dựa vào ứng dụng CNTT.

Đẩy mạnh Chương trình Chính phủ điện tử trong tất cả các lĩnh vực, bao gồm giao thông, du lịch sẽ thúc đẩy quá trình ứng dụng CNTT trong tất cả các lĩnh vực(4). Bên cạnh đó, cần xây dựng hạ tầng thanh toán điện tử bằng các giải pháp hạn chế sử dụng tiền mặt; hỗ trợ sự phát triển của thương mại điện tử, hợp đồng điện tử, chữ ký số.

Đẩy nhanh việc chuẩn bị các phương án triển khai dịch vụ 5G (cho phép kết nối in-tơ-nét nhanh hơn 4G gấp nhiều lần) để có thể theo kịp xu hướng thế giới (hiện Việt Nam bắt đầu thử nghiệm dịch vụ 5G và điện thoại thông minh tích hợp 5G). Công nghệ 5G sẽ tạo kết cấu hạ tầng tốt cho việc kết nối theo xu hướng in-tơ-nét kết nối vạn vật, mở ra cơ hội kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Cùng với xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng viễn thông hiện đại, trở thành nền tảng của nền kinh tế số, cần chú trọng việc bảo đảm an toàn, an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong cơ hội tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số. Việc bảo đảm an toàn, an ninh mạng sẽ giúp Việt Nam có được sự tin tưởng của các đối tác nước ngoài, là môi trường an toàn để đầu tư kinh doanh, đồng thời cũng là cơ hội để chúng ta phát triển các sản phẩm phục vụ an ninh mạng.

Hai là, mạnh dạn tháo gỡ chính sách quản lý trong lĩnh vực in-tơ-nét. Sự chuyển đổi nhanh của các mô hình kinh doanh trong nền kinh tế số đã dẫn tới một số quy định pháp luật đã không theo kịp. Tiến tới định hình các tiêu chuẩn quốc tế và các quy tắc thương mại kỹ thuật số.

Mạnh dạn chấp nhận các mô hình kinh doanh mới, và các công nghệ mới làm thay đổi căn bản các ngành, gọi là X-Tech, như Fintech, EduTech, AgriTech,... Cần có cách tiếp cận mới trong quản lý mà nhiều nước áp dụng, gọi là cách tiếp cận Sandbox: Cái gì không biết quản thế nào thì không quản, cho tự phát triển, nhưng trong một không gian và một thời gian nhất định, để các vấn đề được bộc lộ một cách rõ ràng, mà thường là không nhiều như lúc đầu các nhà quản lý dự đoán. Sau đó mới hình thành chính sách, quy định để quản lý.

Ba là, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế số hiện nay. Quyền sở hữu trí tuệ là nền tảng mà theo đó sáng tạo được chia sẻ, tính sáng tạo được khuyến khích và sự tin cậy của khách hàng được thúc đẩy. Nhưng thế giới số đặt ra một thách thức mới, đó là làm thế nào để quản lý sự cân bằng khi khách hàng là người sáng tạo, khi chi phí biên sao chép là 0, khi việc thực thi luật bản quyền hiện nay còn khó khăn và khi việc tiếp cận thông tin là “miễn phí” và nội dung được nhiều người xem yêu cầu phải trở thành một quyền.

Bốn là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, có cơ chế, chính sách hoàn thiện để điều chỉnh hoạt động của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Việc chậm cấp giấy phép từ cơ quan quản lý cũng khiến các doanh nghiệp không thể chủ động triển khai các dịch vụ như kế hoạch đã đề ra. Việc cấp giấy phép chậm này ảnh hưởng đến việc cung cấp các dịch vụ mới ở Việt Nam, làm giảm cơ hội của các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sự nâng cấp chất lượng và tốc độ của in-tơ-nét di động cho doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ kinh tế số đòi hỏi in-tơ-nét tốc độ cao.

Năm là, hỗ trợ huy động các nguồn lực, có những chính sách ưu đãi về thuế cho ngành phần mềm, các khu công nghệ cao, các công viên phần mềm. Thí điểm xây dựng những “đặc khu ảo” để thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp in-tơ-nét, tương tự như việc hình thành đặc khu kinh tế. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, phát triển, kinh doanh công nghệ mới tiến tới xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.

Sáu là, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế số. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực CNTT được xem là một trong những mối thách thức lớn đối với sự phát triển nền kinh tế số của Việt Nam. Theo các nghiên cứu, gần 1/3 số nghề mới hiện nay không tồn tại cách đây 1/4 thế kỷ, và sau 1/4 thế kỷ nữa sẽ có 60% số nghề chưa xuất hiện bây giờ. Vì vậy, cùng với việc thay đổi chương trình đào tạo theo kịp các xu thế công nghệ mới, đẩy nhanh việc xã hội hóa giáo dục CNTT bằng việc tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên sớm tiếp cận lĩnh vực này, cần thay đổi giáo dục theo hướng tăng tính tự học, tự cập nhật và học suốt đời.

Có chính sách kết nối cộng đồng khoa học công nghệ trong nước với nước ngoài, đặc biệt với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Bảy là, phát động cuộc cách mạng toàn dân khởi nghiệp công nghệ số, phổ cập công nghệ số ở Việt Nam. Cách nhanh nhất để đẩy nhanh nền kinh tế số là sử dụng công nghệ số để thay đổi cách chúng ta đang sản xuất, đang làm việc. Dùng công nghệ số để giải quyết vấn đề Việt Nam, bài toán Việt Nam, và từ cái nôi Việt Nam, các doanh nghiệp công nghệ này sẽ đi ra toàn cầu. Công nghệ sinh ra là để giải quyết vấn đề, ở đâu có vấn đề là ở đó có công nghệ, có giải pháp. Vấn đề đang có ở mọi nơi, có thể là ngay trong công việc hằng ngày của mỗi chúng ta, và mỗi chúng ta có thể khởi nghiệp công nghệ để giải quyết bài toán của mình.

Tám là, tuyên truyền nâng cao nhận thức toàn xã hội về nền kinh tế số. Các cơ quan báo chí, tuyền thông cần định hướng dư luận, giúp các doanh nghiệp, người dân và toàn xã hội có nhận thức đúng về nền kinh tế số, qua đó có sự chuẩn bị tốt nhất đã thích ứng xu hướng phát triển này. Cần làm cho xã hội nhận thức được rằng Chính phủ, doanh nghiệp và người dân đều có trách nhiệm và vai trò riêng biệt trong nền kinh tế số. Các doanh nghiệp cần tích cực chuẩn bị để nắm bắt các cơ hội cũng như bảo đảm tính cạnh tranh quốc tế trong nền kinh tế số toàn cầu, phải sẵn sàng cho một tương lai kỹ thuật số với các hình thức kinh doanh mới, phải đầu tư cho hạ tầng công nghệ, cho nguồn nhân lực và cho công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Các cá nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế số. Mỗi cá nhân cần tự trang bị và nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ kỹ thuật số phục vụ cho các công việc trong tương lai, và phải biết tự bảo vệ trước các nguy cơ bị đe dọa hay lấy cắp thông tin cá nhân trực tuyến.

Chúng ta đã bỏ qua nhiều cơ hội để bứt phá, CMCN 4.0 và chuyển đổi số đang trao cho chúng ta một “cơ hội vàng” mới. Để nắm bắt được nó cần phải có sự nỗ lực từ nhiều phía, từ Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp đến người dân. Tin rằng, với một quyết tâm chính trị cao, cách tiếp cận đúng đắn, Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội này để bứt phá thành công./.

---------------------------------------------------

(1) Think Tank Vinasa: Việt Nam thời chuyển đổi số, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2019, tr. 172
(2) Hoàn thiện thể chế cho kinh tế số, 
Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 106+107, ngày 3-5-2019
(3) Think Tank Vinasa: 
Việt Nam thời chuyển đổi số, sđd, 2019, tr. 219
(4) Sau hơn 10 năm triển khai Chương trình Chính phủ điện tử, Việt Nam mới cơ bản hoàn thành việc kết nối, liên thông các hệ thống quản lý văn bản của các bộ, ngành, địa phương với Văn phòng Chính phủ. Việt Nam đã tiến 10 bậc theo đánh giá của Liên hợp quốc về Chính phủ điện tử. Nhưng trên thực tế, chúng ta mới đứng ở vị trí thứ 6 trong ASEAN