TCCSĐT - Được xác định là vùng có vai trò quan trọng trong chiến lược an ninh lương thực và xuất khẩu gạo của quốc gia; là nơi cung cấp lương thực, trái cây, thủy sản lớn nhất nước; có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế biển,… nhưng đến nay sức phát triển của đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa tương xứng so với những tiềm năng và thế mạnh vốn có. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng này là do nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn rất hạn chế khi chính sách tín dụng ngân hàng còn gặp nhiều “rào cản” trên đường đi vào thực tế.

Hiệu quả từ các chính sách tín dụng ngân hàng hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chỉ đạo chi nhánh Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long tập trung triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tạo điều kiện cho các hộ nông dân, doanh nghiệp trong vùng phục hồi, ổn định và phát triển sản xuất. Song song đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã bổ sung, hoàn thiện một số cơ chế, chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể là:

Tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-CP (Nghị định 55), ngày 09-6-2015 “Về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn” thay thế Nghị định 41/2010/NĐ-CP với các giải pháp đột phá, nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng đẩy mạnh đầu tư vốn cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ doanh nghiệp và người dân mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp Việt Nam.

Chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động cân đối nguồn vốn để đầu tư cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn; quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ (trong đó có lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn) luôn thấp hơn lãi suất cho vay các lĩnh vực thông thường khác từ 1-2%/năm.

Ban hành Chỉ thị số 03/CTNHNN ngày 24-3-2015 “Về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh, quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng”. Theo đó, các dự án đầu tư trong lĩnh vực nuôi trồng, chế biến thủy hải sản theo tiêu chí "xanh" bảo vệ môi trường, nông nghiệp xanh, du lịch xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ được các ngân hàng quan tâm xem xét, cấp tín dụng.

Ban hành Chỉ thị số 03/CTNHNN, ngày 09-3-2016 chỉ đạo chi nhánh Ngân hàng Nhà nước các tỉnh, các tổ chức tín dụng chủ động rà soát các khoản nợ vay của khách hàng bị thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn trên địa bàn để thực hiện các biện pháp hỗ trợ như cơ cấu lại thời hạn trả nợ; miễn, giảm lãi vay; tiếp tục cho vay mới để khách hàng khắc phục khó khăn, khôi phục sản xuất.

Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn phối hợp với các bộ, ngành Trung ương tham mưu cho Chính phủ triển khai nhiều chính sách tín dụng đặc thù cho vùng đồng bằng sông Cửu Long như: cho vay tạm trữ lúa gạo để ổn định giá lúa trong thời kỳ thu hoạch rộ; hỗ trợ cho người nuôi tôm và cá tra gặp khó khăn không trả được nợ vay ngân hàng; cho vay hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp; chính sách tín dụng phục vụ phát triển thủy sản, hỗ trợ khai thác hải sản xa bờ; chương trình cho vay thí điểm theo các mô hình liên kết, áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp,...

Đến nay, mạng lưới các tổ chức tín dụng đã được mở rộng, bao phủ hầu hết địa bàn 13 tỉnh, thành trong vùng gồm: 4 ngân hàng thương mại Nhà nước, trên 20 ngân hàng thương mại cổ phần, 2 ngân hàng chính sách (Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam), 5 chi nhánh và 3 phòng giao dịch của Ngân hàng Hợp tác xã và hệ thống 147 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Với mạng lưới này, việc triển khai hoạt động tín dụng hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn thời gian qua ngày càng đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay nông nghiệp, nông thôn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long những năm gần đây liên tục tăng. Tính đến hết tháng 6-2016, đạt dư nợ khoảng 190.000 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cuối năm 2015, chiếm tỷ trọng gần 22%/tổng dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn toàn quốc và chiếm gần 48% tổng dư nợ cho vay của toàn vùng. Các khoản vay tập trung vào các ngành như thủy sản, lương thực, chăn nuôi, rau quả,... Cụ thể kết quả cho vay đối với một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực của vùng như sau:

Đối với lĩnh vực thủy sản: Dư nợ cho vay thu mua, chế biến, xuất khẩu thủy sản ước đạt 55.000 tỷ đồng, tăng 4,31% so với cuối tháng 12-2015; cho vay đóng mới, nâng cấp tàu theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, ngày 07-7-2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản đạt 91 con tàu (đóng mới 78 tàu và nâng cấp 13 tàu) với số tiền cam kết cho vay gần 621 tỷ đồng, dư nợ cho vay đạt gần 469 tỷ đồng.

Đối với lĩnh vực lúa gạo: Dư nợ cho vay lúa gạo tại 13 tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long đến cuối tháng 6-2016 ước đạt khoảng 27.500 tỷ đồng, tăng 10,5% so với cuối tháng 12-2015, chiếm khoảng 75%/tổng dư nợ cho vay lúa gạo toàn quốc.

Chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp theo Nghị quyết số 14/NQ-CP của Chính phủ: Ở đồng bằng sông Cửu Long có 10 doanh nghiệp trong tổng số 28 doanh nghiệp trên toàn quốc được lựa chọn tham gia chương trình thí điểm để thực hiện 10 dự án sản xuất liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, với số tiền các ngân hàng đã giải ngân cho vay đạt gần 5.424 tỷ đồng.

Kết quả hỗ trợ sản xuất cho người dân, doanh nghiệp bị thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn: Tính đến cuối tháng 6-2016, có 4.163 khách hàng được tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ với dư nợ được cơ cấu là 120,5 tỷ đồng; 9.719 khách hàng được các tổ chức tín dụng cho vay mới ổn định sản xuất với số tiền là 220,37 tỷ đồng.

Nhìn chung, việc đẩy mạnh các hoạt động tín dụng ngân hàng hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua đã tạo ra những hiệu ứng tích cực, thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Cụ thể là:

Góp phần điều chỉnh cơ cấu trong nền kinh tế theo hướng khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, góp phần tạo việc làm cho người lao động…

Thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội, phát huy những tiềm năng, lợi thế của vùng. Nhờ có nguồn vốn tín dụng ngân hàng, nhiều hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp có điều kiện mở rộng, phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển chăn nuôi ở nhiều phương thức, quy mô khác nhau, đẩy mạnh nuôi trồng và chế biến thủy sản, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ giới hóa, áp dụng khoa học- kỹ thuật hiện đại, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất, góp phần tăng năng suất, chất lượng cây trồng, tăng giá trị sản xuất nông nghiệp của toàn vùng.

Các chương trình tín dụng chính sách của Nhà nước đã từng bước xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống và bảo đảm an sinh xã hội trong khu vực; kết cấu hạ tầng và bộ mặt các vùng nông thôn trong khu vực đã có những thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.

Vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức

Bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung, hoạt động tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp - nông thôn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, nguồn vốn tín dụng chưa đáp ứng được nhu cầu của các địa phương. Đây là vùng nhiều tiềm năng, thế mạnh về nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản... nhưng những năm qua, huy động vốn của các tổ chức tín dụng trên địa bàn chỉ đáp ứng 88% nhu cầu vốn của khu vực. Những khó khăn, hạn chế đã và đang trở thành “rào cản” trong việc mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng là:

- Chưa có quy hoạch vùng, quy hoạch khu vực cho các sản phẩm chủ lực của vùng. Hệ thống kết cấu hạ tầng của vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhìn chung, chưa đồng bộ và chưa hoàn thiện, nhất là hệ thống đê bao, cống để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững.

- Nhiều loại nông sản chủ lực của vùng chưa xây dựng được thương hiệu mạnh, nên sức cạnh tranh trên thị trường kém, giá bán và lợi nhuận thấp dù lượng xuất khẩu lớn; chưa tạo lập được chính sách cho sự ổn định của các sản phẩm thế mạnh của khu vực; các loại nông sản chủ lực luôn đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro thị trường. Vì vậy, các tổ chức tín dụng cũng ngại đầu tư cho các dự án, chương trình phát triển các loại nông sản này.

- Việc đầu tư phát triển các sản phẩm sản xuất theo hướng nông nghiệp công nghệ cao phải gắn liền với chế biến và tiêu thụ. Trong khi đó, công tác tổ chức phân vùng liên kết bao tiêu sản phẩm, nguyên liệu của các doanh nghiệp trong ngành hàng chưa được quan tâm đúng mức, chưa tạo được sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nông dân cũng như giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, nhiều hộ nông dân chưa dám mạnh dạn đầu tư đồng bộ khi chưa có các hợp đồng thu mua nguyên liệu lâu dài.

- Một số chính sách chưa tạo ra sự liên kết vững chắc theo chuỗi: người sản xuất - ngân hàng cho vay vốn - doanh nghiệp thu mua, chế biến và xuất khẩu hay tiêu thụ nông sản, thủy sản - doanh nghiệp cung ứng giống, thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y hay thuốc bảo vệ thực vật - nhà khoa học.

- Một số tư liệu lao động như các máy móc phục vụ cho sản xuất, thu hoạch, nhà kính, nhà lưới, nhà bạt, ao nuôi trồng thủy sản... trên đất nông nghiệp có giá trị lớn nhưng chưa được các cơ quan có thẩm quyền cấp chứng nhận, quyền sở hữu kịp thời; chưa có định mức và quy chuẩn cụ thể… Vì thế, việc sử dụng các tài sản này để thế chấp vay vốn tại các tổ chức tín dụng còn gặp nhiều khó vướng mắc.

- Vùng đồng bằng sông Cửu Long có diện tích rộng, hệ thống giao thông chưa thuận lợi nên nhiều nơi người dân khó tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng trong trường hợp ngân hàng thương mại chưa mở rộng mạng lưới phòng giao dịch, điểm giao dịch. Trong sản xuất nông nghiệp, các hộ dân nông thôn thường trực tiếp mua các nguyên vật liệu phục vụ sản xuất tại các cửa hàng bán lẻ, chưa có thói quen sử dụng hóa đơn dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục thanh toán, giải ngân với các tổ chức tín dụng.

- Chính sách bảo hiểm nông nghiệp chưa phát triển, chưa tạo nền tảng an toàn cho việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp, nông thôn. Việc tiêu thụ nông sản, thủy sản không ổn định, nhất là hàng nông sản xuất khẩu, nên nhiều tổ chức tín dụng vẫn dè dặt trong việc cho vay đối với khu vực kinh tế trang trại, doanh nghiệp chế biến nông sản...

- Hoạt động tín dụng chính sách vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu vốn, thiếu cơ chế, chính sách cụ thể; các sản phẩm tín dụng cung ứng cho các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp của phần lớn các ngân hàng thương mại còn đơn điệu, phân tán… chủ yếu là cho vay lưu vụ, cho vay thu mua nông sản, lương thực tạm trữ...

- Công tác quy hoạch vùng, quy hoạch các địa phương trong vùng, liên kết vùng còn nhiều bất cập, chưa được điều chỉnh kịp thời ảnh hưởng nhiều đến việc phân bổ nguồn lực và chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng của ngân hàng.

- Đầu tư vốn tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tiềm ẩn nhiều rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, thị trường tiêu thụ nông sản bấp bênh; thiếu các công cụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro; nguồn lực của Nhà nước dành để xử lý rủi ro cho nông nghiệp còn thấp;...

- Thiếu cơ chế để tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp và nông dân để từ đó tạo thành chuỗi kết nối bền vững từ sản xuất đến tiêu thụ nông sản. Vì thế, các tổ chức tín dụng dè dặt khi muốn tăng mức đầu tư cho nông dân, doanh nghiệp nông nghiệp.

- Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Chỉ thị về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường để phát triển bền vững. Tuy nhiên, việc xây dựng và thẩm định các dự án xanh theo các tiêu chí bảo vệ môi trường của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn do lĩnh vực này còn khá mới mẻ ở Việt Nam.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long

Một là, Chính phủ sớm xem xét, điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng chuyển dịch mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thủy sản... phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn, nhằm bảo đảm cho việc đầu tư, sản xuất, kinh doanh trên địa bàn này bảo đảm tính ổn định và bền vững. Vấn đề có tầm quan trọng hiện nay là cần có một cơ chế đặc thù giúp vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu như: lập quỹ ứng cứu ảnh hưởng do biến đổi khí hậu; thành lập hội đồng cấp vùng để ứng phó biến đổi khí hậu; tăng cường liên kết giữa các địa phương trong để thực hiện các công trình ứng phó với biến đổi khí hậu.

Hai là, trên cơ sở Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững đã được Chính phủ phê duyệt, các tỉnh, thành trong vùng sớm rà soát, điều chỉnh và công bố quy hoạch các vùng sản xuất tập trung, chuyên môn hóa đối với cây trồng, vật nuôi, quy hoạch các nhà máy sản xuất, chế biến, mở rộng thị trường tiêu thụ và xuất khẩu để tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp ổn định và mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả. Đây cũng là cơ sở để các tổ chức tín dụng mạnh dạn xây dựng các chương trình, kế hoạch hỗ trợ vay vốn trung và dài hạn cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.

Ba là, tiếp tục đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn: tổng kết, đánh giá, hoàn thiện và nhân rộng các mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả như mô hình “cánh đồng lớn”; mô hình liên kết nuôi cá tra và nuôi tôm công nghiệp phục vụ chế biến xuất khẩu; mô hình sản xuất đạt chất lượng sản phẩm cao, an toàn thực phẩm; mô hình chăn nuôi gia công; xây dựng các vùng chuyên canh, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của nông dân, tăng cường mối liên kết "4 nhà" thực chất và hiệu quả hơn theo những mô hình hợp tác kiểu mới…

Bốn là, nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn, đặc biệt quan tâm đến các mô hình liên kết chuỗi giá trị gia tăng từ khâu cung cấp đầu vào, sản xuất, thu gom, sơ chế, chế biến thương mại và tiêu dùng, tạo môi trường thuận lợi, bình đẳng, lợi ích hài hòa cho các bên tham gia đầu tư mô hình liên kết theo chuỗi nhằm nâng cao hiệu quả. Song song đó, cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin về thị trường, giá cả, dự báo giúp nông dân và doanh nghiệp có hướng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Năm là, Chính phủ nghiên cứu biện pháp hỗ trợ mua bảo hiểm rủi ro trong nông nghiệp cho nông dân; cấp bù lỗ và bảo hiểm lãi suất cho vay đối với tín dụng nông nghiệp cho một số sản phẩm, địa bàn lựa chọn... Có như thế, các tổ chức tín dụng mới mạnh dạn hơn trong việc đầu tư vốn vào nông nghiệp, nông thôn; đồng thời cũng giúp nông dân yên tâm đầu tư sản xuất theo hướng ổn định và lâu dài.

Sáu là, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần có chính sách hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị liên kết sản xuất tiêu thụ cho những sản phẩm đặc thù mang tính liên vùng, quy mô lớn; hỗ trợ nhiều hơn cho các doanh nghiệp tham gia liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm trực tiếp cho nông dân. Đồng thời, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, người dân tham gia trong chuỗi ổn định sản xuất, có biện pháp kiểm soát, xử lý kịp thời đối với các trường hợp kiềm giá, ép giá... gây rối loạn thị trường, hoặc tình trạng phá vỡ hợp đồng trong chuỗi liên kết.

Bảy là, xây dựng, phát triển các quỹ hoặc giao Ngân hàng Phát triển Việt Nam bảo lãnh cho đối tượng khách hàng ở khu vực nông thôn được vay vốn ngân hàng với mức cao hơn mức cho vay không có bảo đảm hiện nay hoặc kết hợp với Hội Nông dân, các hiệp hội ngành nghề, tăng cường trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong việc hỗ trợ tổ chức tín dụng cho vay và thu hồi nợ.

Tám là, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng triển khai các giải pháp tín dụng hỗ trợ đối với các khách hàng đang vay vốn bị thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn như cơ cấu lại nợ, miễn hoặc giảm lãi vay… theo quy định để khách hàng ổn định cuộc sống và tiếp tục phát triển sản xuất; chỉ đạo các tổ chức tín dụng cân đối nguồn vốn tham gia thực hiện các đề án, dự án và các chương trình phòng chống thiên tai, biến đổi khí hậu trên địa bàn.

Chín là, Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện và hỗ trợ các ngân hàng thương mại tiếp tục mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch, điểm giao dịch để đưa các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng đến với người dân, doanh nghiệp; phục vụ tốt hơn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp ở địa bàn nông thôn.

Mười là, các tổ chức tín dụng cần nghiên cứu các sản phẩm tín dụng phù hợp với đặc thù của địa bàn: thiết kế các khoản vay có tính chất vụ mùa và thời điểm liên quan đến lĩnh vực trồng trọt, thủy sản; phát triển sản phẩm tín dụng theo chuỗi liên kết…; áp dụng các điều kiện cho vay linh hoạt hơn; xây dựng cơ chế lãi suất mở, linh hoạt phù hợp với đặc thù, tình hình tài chính của hợp tác xã, doanh nghiệp, đối tượng dự án đầu tư và thực trạng quản trị rủi ro đối với từng dự án./.