Phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc. Ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số, còn lại là 53 dân tộc thiểu số với gần 12 triệu người, chiếm khoảng 14,5% dân số, phân bố trên địa bàn 58/64 tỉnh, thành cả nước. Các dân tộc thiểu số nước ta có số dân không đồng đều, có nhóm đông người như Tày, Thái, Mường, Khmer, có nhóm rất ít như Ơ-đu, Brâu, Rơ-măm, Cờ-lao, Pu-péo,... Mỗi dân tộc phân bố không tập trung, quần cư xen kẽ với các dân tộc anh em khác và sinh sống chủ yếu trên địa bàn miền núi rộng lớn, là nơi có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế và an ninh, quốc phòng. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời, lợi ích mang tính sống còn, bảo đảm sự ổn định cho sự phát triển chung của quốc gia cả về ba khía cạnh kinh tế, chính trị và quốc phòng. Tuy nhiên, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), còn nhiều vấn đề cần tập trung giải quyết để có thể đem lại những hiệu quả thiết thực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng cũng như lợi ích quốc gia nói chung.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa xóa đói, giảm nghèo với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Miền núi và vùng dân tộc không thể phát triển, không thể thoát nghèo nếu không CNH, HĐH và hội nhập vào sự phát triển chung của cả nước. Yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đặt ra đối vùng đồng bào dân tộc thiểu số là phải xây dựng được kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật hiện đại, như giao thông, hệ thống điện, thông tin liên lạc, các cụm công nghiệp và khu kinh tế cửa khẩu, thực hiện cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, thương mại, giảm tỷ trọng nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, trên cơ sở chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, áp dụng công nghệ sinh học, chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất cây trồng, vật nuôi gắn với bảo quản, chế biến, bảo hiểm sản xuất và tạo lập thị trường trong nước và xuất khẩu cho các sản phẩm hàng hóa. Rõ ràng, đây là bài toán khó đối với một vùng kinh tế nghèo, phức tạp về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Vừa qua, có tới gần 2.000 xã trong diện đặc biệt khó khăn, ưu tiên cần được đầu tư theo Chương trình 135 giai đoạn II và một con số tương đương trong giai đoạn III sắp tới (bao gồm cả xã thành lập mới do chia tách theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ). Trong khi đó, giữa các vùng, các nhóm dân tộc và bản thân mỗi dân tộc cũng có sự phát triển không đều nhau. Một bộ phận dân cư nắm bắt được cơ hội sẽ khá lên, thoát nghèo do thích nghi được môi trường mới, còn một bộ phận không nhỏ sẽ khó khăn hơn do bị mất đất đai, mất nguồn lợi tự nhiên và nguồn sống bị thu hẹp lại. Vấn đề xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia, như các đập thủy điện, công trình giao thông quốc gia, nhà máy, xí nghiệp, nông, lâm trường, di dân phát triển kinh tế, phân bố lại lực lượng lao động, di dân tự do, việc mở rộng các khu bảo tồn,... làm biến động dân cư, cũng như tác động không nhỏ tới đời sống kinh tế và tình trạng nghèo đói của các nhóm dân cư tại chỗ.
Có thể nhận thấy, quy luật phát triển không đồng đều làm cho đời sống kinh tế, xã hội giữa các dân tộc chênh lệch nhau gây nên sự mặc cảm, tự ti, làm giảm yếu tố động lực phát triển ở các cộng đồng dân tộc. Điều này gây bất lợi trong việc xây dựng đoàn kết các dân tộc, nhất là khi mối quan hệ dân tộc trở nên phức tạp và dễ vượt ra khỏi phạm vi dân tộc, trở thành quan hệ quốc gia và quốc tế khi bị các thế lực thù địch lợi dụng.
Khắc phục những trở ngại trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển nền sản xuất hàng hóa, các thành phần kinh tế trong quá trình CNH, HĐH, thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo (XĐGN) là vấn đề không đơn giản đối với vùng dân tộc thiểu số và trên thực tế còn nhiều bất cập do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số là quá trình thị trường hóa dần dần nền kinh tế tự túc, tự cấp, bằng việc thúc đẩy sức sản xuất hàng hóa, tạo thu nhập cho nhân dân. Hiện tại, người dân, những chủ thể của kinh tế vùng dân tộc, chưa theo kịp được những thay đổi của phát triển, chưa làm quen được với kinh tế thị trường. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ, như trợ giá hàng hóa; trợ cước; hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm; cung cấp các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, tín dụng,... nhưng sản xuất vẫn còn hết sức hạn chế, do bị ràng buộc bởi “tư duy kỹ thuật thủ công và phong cách tộc người”. Bên cạnh đó, người dân luôn bị tư thương ép giá cục bộ do ít có khả năng tiếp cận thị trường hoặc tình trạng bão hòa các sản phẩm do thiếu tính quy hoạch giữa các vùng.
Bài toán hiệu quả kinh tế luôn được các nhà đầu tư mọi thành phần kinh tế đặt lên hàng đầu nên vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa là những khu vực kém sức thu hút. Ngay cả các doanh nghiệp nhà nước thực hiện vai trò dịch vụ công hỗ trợ phát triển khu vực này nhưng thực hiện cũng chưa tốt do yếu tố kinh tế thị trường chi phối, do thiếu tiềm lực và định hướng sản xuất, kinh doanh đúng. Sự phát triển các loại hình kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước, kinh tế trang trại vùng miền núi, dân tộc vừa qua đã chứng minh điều đó.
Khi nền kinh tế hướng theo thị trường, yếu tố năng động và sự khác biệt giữa các vùng ngày càng cao thì sự phối hợp càng trở nên cần thiết. Nhu cầu liên kết ngành và các hoạt động kinh tế, xã hội đòi hỏi tăng cường phát triển tổng hợp, làm hiệu quả hơn việc giải quyết các vấn đề khó khăn ở nông thôn, miền núi. Cần phải cơ cấu lại hệ thống các tổ chức kinh tế tập thể và nhà nước hoạt động theo hướng bảo đảm mục tiêu chính trị - kinh tế, đồng thời tạo lập môi trường cạnh tranh cho các thành phần kinh tế khác. Đây là vấn đề lớn, đòi hỏi sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp, nhất là lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác dân tộc.
Giải quyết các vấn đề về quan hệ dân tộc, trong đó có quan hệ văn hóa, giữa yếu tố truyền thống và hiện đại
Như đã đề cập, con đường đi tới việc XĐGN, thu hẹp khoảng cách chênh lệch phát triển giữa các vùng, các dân tộc là phấn đấu cho một nền sản xuất có năng suất lao động cao hơn, sự phân công lao động hợp lý hơn. Sự phân công ấy không chỉ trong một hệ thống khép kín đơn giản mà nó được mở rộng ra trong quan hệ giữa các dân tộc trong sản xuất. Những mối quan hệ xã hội, quan hệ dân tộc được xác lập trong quá trình này có tác động lại những mối quan hệ về phân công lao động. Trong các tác phẩm của mình, C. Mác cũng đã đề cập, phân tích sâu về các yếu tố kinh tế - xã hội, tác động, ảnh hưởng của nó đối với những quan hệ đời sống kinh tế, xã hội và chính trị, trong đó có quan hệ dân tộc.
Xét về quan hệ dân tộc, XĐGN, đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi phải thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc, các vùng, khắc phục tình trạng biệt lập, khép kín như hiện nay. Quá trình điều chuyển dân cư trong “Chương trình khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới” ở miền Bắc những năm 60 thế kỷ trước và di dân vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên thập niên 70 - 80 (và cả di cư tự do), huy động nguồn nhân lực cho việc xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia,... có cả tác động tích cực và tiêu cực. Một mặt, các dân tộc có điều kiện thuận lợi để tiếp xúc, học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm sản xuất, những giống cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao, trao đổi hàng hóa. Ở Tây Nguyên, nhiều buôn, làng người Thượng học cách khai phá ruộng nương của người Kinh và đồng bào thiểu số phía Bắc để trồng lúa nước, dùng trâu bò làm sức kéo thay vì chỉ để làm lễ tế thần như trước đây. Sự hòa nhập kinh tế cũng góp phần thúc đẩy tình cảm dân tộc, tạo nên quan hệ dân tộc tốt đẹp.
Nhưng mặt khác, thực tế cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, như tình trạng mất đất, thiếu đất, tranh chấp đất đai, làm thuê kiếm sống, tư thương “mua rẻ, bán đắt” diễn ra ở vùng dân tộc. Việc ưu tiên, chú trọng giúp đỡ dân tộc này mà chưa giúp đỡ được dân tộc kia trên cùng một địa bàn cũng nảy sinh tâm lý phân hóa.
Xét về quan hệ trong nội bộ dân tộc, quan hệ xã hội truyền thống vẫn là nền tảng cơ bản của đời sống kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Đó là quan hệ xã hội phạm vi hẹp nhưng khá vững chắc, nổi bật lên là quan hệ của gia đình, họ hàng và những quan hệ này chi phối tới đời sống từng cá nhân, hộ gia đình một cách đáng kể. Tập quán sản xuất, phân công lao động hình thành lâu đời và tương đối ổn định với cách thức tổ chức, điều hành và quản lý các hoạt động kinh tế, xã hội phù hợp với nền kinh tế tiểu nông. Đoàn kết là truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số, trong điều kiện sản xuất còn ở trình độ thấp, con người phải hợp sức lại để khai thác thiên nhiên, hợp tác lao động để thu được thành quả nhiều hơn. Điều kiện sống đó đã gắn kết tính cộng đồng trở nên mạnh mẽ hơn, giúp đỡ lẫn nhau và cùng chia sẻ lợi ích có được. Một đặc trưng xã hội nữa là truyền thống dân chủ, trong gia đình và cộng đồng. Đây cũng được coi là một chuẩn mực đạo đức theo tâm lý xã hội cộng đồng, được giám sát thông qua hệ thống luật tục, quy ước hay các điều cấm. Nhưng tính gắn kết và dân chủ này cũng làm nảy sinh tư tưởng bình quân chủ nghĩa, cào bằng, làm mất đi động lực phát triển. Những đặc trưng này thể hiện rất rõ ở các nhóm dân tộc rất ít người, sống ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, các nhóm dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
Việc thiếu cơ hội tiếp cận thông tin cộng với sự ràng buộc bởi đặc tính tâm lý và một số phong tục tập quán, những định kiến và khác biệt văn hóa đã làm cho một số cộng đồng dân cư trở thành “lô cốt cố thủ” trước những tác động bên ngoài, có xu hướng cố kết trong nội bộ từng tộc người. Điều này thường gặp ở các nhóm dân tộc rất ít người ở phía Bắc và khu vực Trường Sơn do sống trong môi trường cách biệt. Có dân tộc có xu hướng “mở” về quan hệ kinh tế, nhưng lại “đóng” về quan hệ xã hội với dân tộc khác. Bởi vậy, thúc đẩy XĐGN và phát triển ở một cộng đồng dân cư nào tức là đưa đến những can thiệp nhằm làm thay đổi những giá trị kinh tế, xã hội ở cộng đồng dân cư đó, thay đổi suy nghĩ, hành vi cá nhân và cả tâm lý cộng đồng.
Điểm mấu chốt trong quá trình này là phải có những biện pháp thúc đẩy, đem lại cơ hội cho người dân và tổ chức xã hội địa phương biết tiếp thu những “yếu tố văn hóa mới” trên cơ sở khai thác kinh nghiệm truyền thống của dân tộc, bằng việc thay đổi những quan điểm, trau dồi những kỹ năng và tạo môi trường thuận lợi cho việc chuyển giao những thông tin, kiến thức và kỹ thuật - công nghệ từ bên ngoài. Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển, đi lên con đường văn minh tiến bộ là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong tư tưởng chỉ đạo cách mạng của Đảng ta, không chỉ là bình đẳng về kinh tế, mà cả chính trị và văn hóa.
Việc giúp đỡ bất kỳ một nhóm dân tộc hay một vùng đặc biệt khó khăn phát triển luôn phải chú ý đến cấu trúc xã hội và những nền tảng giá trị văn hóa mà dân tộc đó có được qua quá trình tồn tại, vận động nhằm thích nghi với đặc điểm tự nhiên và môi trường xã hội. Bởi vậy, sự tác động thông qua các hoạt động trợ giúp cụ thể hay chính sách ở tầm vi mô, vĩ mô phải mang tính phù hợp với đối tượng cụ thể. Cần hết sức tránh một sự áp đặt, rập khuôn, máy móc theo mô hình định sẵn hay chỉ phù hợp với vùng đồng bằng, nhất là tránh sự áp đặt về văn hóa.
Bảo đảm quyền làm chủ gắn với việc xây dựng ý thức nỗ lực vươn lên của người nghèo, cộng đồng người nghèo
Công tác dân tộc và công cuộc XĐGN không phải là con đường bằng phẳng theo một lý thuyết hay nguyên lý định sẵn, mà thực chất là cuộc cách mạng chống lại nghèo đói và lạc hậu. Quán triệt tư tưởng quần chúng trong lãnh đạo cách mạng, nhất là đối với cán bộ làm việc trực tiếp với dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi phải “đưa chính trị vào giữa dân gian”. Trước kia, làm việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”, làm như thế, “chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí” và “cán bộ chẳng những phải lãnh đạo quần chúng mà phải học hỏi quần chúng”. Sự tham gia đầy đủ của nhân dân và quyền làm chủ trực tiếp của họ chính là điểm cốt lõi đối với sự nghiệp XĐGN và phát triển ở vùng miền núi. Tuy nhận thức phương pháp cách mạng là như vậy, nhưng cụ thể hóa và thực hiện nó trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể không phải điều dễ dàng, đòi hỏi phải có cơ chế chính sách hợp lý, một đội ngũ cán bộ có năng lực và phẩm chất, “gần dân, hiểu dân, và học dân” hơn. Vì theo như Bác Hồ đã chỉ ra, cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy vẫn tê liệt.
Qua nghiên cứu, phân tích nguyên nhân nghèo đói của nhiều địa phương cho thấy, nghèo đói thường xuất phát từ nhiều yếu tố, khách quan và chủ quan. Nhưng yếu tố quyết định vẫn là xuất phát từ bản thân người nghèo, cộng đồng người nghèo. Nếu chỉ sử dụng các phương tiện tài chính, vật chất để hỗ trợ trực tiếp người nghèo, thì tác dụng nhất thời và trong nhiều trường hợp đã tạo ra sự ỷ lại, chờ đợi sự cứu trợ. Muốn thoát khỏi đói nghèo, bản thân người nghèo, cộng đồng người nghèo phải nỗ lực vươn lên, phải xây dựng cho mình tính độc lập, tự chủ, tự cường. Một dân tộc dù đa số hay thiểu số, đều phải thực hiện bằng chính nỗ lực của bản thân, vì “muốn người ta giúp mình thì trước hết mình phải giúp mình đã”. Đó là con đường tốt nhất để mỗi dân tộc khẳng định vị thế và sự sinh tồn của mình trong một xã hội, quốc gia có nhiều dân tộc và để hội nhập, phát triển.
Vì thế, Nhà nước cần có những chính sách, chế định cụ thể hơn về các tổ chức cộng đồng làng xã, củng cố, tăng cường và khuyến khích sự hoạt động của các tổ chức này trong việc xây dựng mạng lưới hành chính cấp cơ sở, phát huy vai trò già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ hay những người lãnh đạo cộng đồng, gắn với việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt địa phương. Có như vậy, công tác quần chúng mới được đẩy mạnh và tăng cường, tạo cơ sở cho việc thực hiện quyền làm chủ trực tiếp cũng như đại diện của nhân dân, khai thác và phát huy những yếu tố tích cực của đội ngũ trí thức địa phương, của luật tục, của tinh thần đoàn kết cộng đồng trong phát triển sản xuất và quản lý kinh tế, xã hội, phát huy nội lực cho công cuộc XĐGN.
Xử lý đúng đắn tác động của xu thế toàn cầu hóa về kinh tế đối với vùng dân tộc
Cùng với sự phát triển của thời đại cách mạng khoa học - công nghệ, sự hưng thịnh của nền kinh tế nhiều quốc gia và khu vực trên toàn thế giới, thì đằng sau đó, tình trạng nghèo khổ cũng đeo bám dai dẳng, trở thành vấn đề quốc gia và toàn cầu. Nghèo khổ, theo cả nghĩa tương đối và tuyệt đối là sản phẩm phụ tất yếu của nền kinh tế thị trường, của quá trình toàn cầu hóa về kinh tế.
Nước ta cũng không nằm ngoài quỹ đạo của những ảnh hưởng đó. Một mặt, toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của đất nước, giúp chúng ta có nhiều nguồn lực hơn để đầu tư cũng như tích lũy đầu tư để phát triển các vùng nghèo, đồng thời sản xuất ở một số vùng đồng bào dân tộc cũng có cơ hội tham gia thị trường rộng lớn đó, tạo thu nhập và góp phần XĐGN. Người dân có cơ hội tiếp cận các dịch vụ, hàng hóa ngày càng đa dạng với những nguồn gốc và xuất xứ khác nhau làm văn minh hơn “văn hóa tiêu dùng” thay vì chỉ có một số mặt hàng truyền thống như trước đây, trong nền kinh tế “đóng cửa”. Nhưng bên cạnh đó, đời sống của đồng bào cũng bị tác động rất mạnh bởi sự phát triển và biến động của thị trường quốc tế. Sản xuất mở rộng kéo theo áp lực lên nguồn tài nguyên đất đai, rừng, nước và các nguồn lợi tự nhiên mà trước kia chỉ có người dân sử dụng, làm thu hẹp nguồn sinh kế. Những năm gần đây, mỗi khi hàng nông sản rớt giá, giá phân bón lên cao, các sản phẩm chè bị thu hẹp thị trường xuất khẩu đã làm đời sống của nhiều hộ đồng bào dân tộc rơi xuống ngưỡng nghèo cùng với nợ nần, do không đủ tiềm lực và khả năng thích ứng với kinh tế thị trường. Đó là chưa kể đến việc khi chúng ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nhiều chính sách hỗ trợ của Chính phủ phải sửa đổi để phù hợp với khuôn khổ luật pháp quốc tế, một số quy định sẽ không thuận lợi cho người nghèo, vùng nghèo, đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách mới phù hợp hơn./.
Về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam  (23/08/2013)
ASEAN kỷ niệm trọng thể 46 năm thành lập Hiệp hội  (23/08/2013)
Số doanh nghiệp Nhật đầu tư vào Việt Nam đang tăng bền vững  (23/08/2013)
ADB cảnh báo "bẫy thu nhập trung bình" ở châu Á  (23/08/2013)
Những sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 về Quốc hội  (23/08/2013)
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh  (23/08/2013)
- Tỉnh Yên Bái nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân: Từ nghị quyết đến thực tiễn
- Vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam trong việc phát triển ngành xuất bản và nguồn nhân lực ngành xuất bản
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 2)
- Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương
- Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên