Tỉnh Quảng Ninh phát triển logistics - ngành dịch vụ tiềm năng, tạo động lực dẫn dắt tăng trưởng vùng
TCCS - Logistics tác động đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất, đồng thời thuộc khâu phân phối, lưu thông mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của nền kinh tế, vì vậy logistics gắn với nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế. Nếu xét cơ cấu ngành của nền kinh tế, logistics hoạt động trong cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Bản thân logistics là ngành dịch vụ đặc thù, tác động tới hiệu quả sản xuất, kinh doanh của tất cả các ngành khác. Vì vậy, khi quy mô và chất lượng dịch vụ, năng lực cạnh tranh của ngành logistics tăng lên sẽ có tác động trực tiếp tới chi phí sản xuất và hiệu quả của các ngành trong nền kinh tế.
Tổng quan về phát triển ngành logistics
Logistics có khái niệm liên quan đến kinh doanh bắt nguồn từ những năm 1950. Điều này chủ yếu do sự gia tăng việc cung cấp, vận chuyển khi toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Trong nền kinh tế thị trường, logistics không phải là hoạt động riêng lẻ mà bao gồm chuỗi các hoạt động mang tính liên ngành, quản lý dòng vận động và lưu chuyển của tất cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp một cách tối ưu nhất. Nói đơn giản, logistics là một phần của chuỗi cung ứng, bao gồm: Đóng gói, vận chuyển, lưu kho, bảo quản, cho tới khi hàng được giao đến người tiêu dùng cuối cùng. Có thể hiểu, logistics là một trong những ngành dịch vụ hậu cần, được thực hiện xuyên suốt và có tác động trực tiếp tới giá thành sản phẩm cũng như mức chi phí tiêu dùng của người dân.
Quyết định số 221/QĐ-TTg, ngày 22-2-2021, của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg, ngày 14-2-2017, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025” đã đề ra 61 nhiệm vụ nhằm phát triển bền vững ngành dịch vụ logistics với 6 mục tiêu cụ thể. Theo đó, đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của dịch vụ logistics vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 5% - 6%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics đạt 15% - 20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50% - 60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16% - 20% GDP, xếp hạng theo Chỉ số hiệu quả logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên.
Logistics là ngành dịch vụ được ví như những mạch máu của nền kinh tế, có vai trò quan trọng trong kết nối, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng, lợi thế đối với ngành logistics, bởi nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động trên thế giới, nơi có nguồn hàng tập trung và luồng hàng giao lưu mạnh, cùng với nền kinh tế có độ mở lớn (hơn 200%), xuất, nhập khẩu và thương mại điện tử luôn tăng trưởng ở mức 2 con số. Trong đó, tỉnh Quảng Ninh là tỉnh có vị trí địa kinh tế đặc biệt ở vùng Đông Bắc, có hệ thống cửa khẩu phân bố trên dọc tuyến biên giới, cùng với hệ thống cảng nước sâu, kết cấu hạ tầng giao thông gần như hoàn thiện và hiện đại nhất cả nước với đủ 5 loại hình vận tải (đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt, đường biển, hàng không), có nhiều thuận lợi trong phát triển dịch vụ logistics. Lợi thế phát triển logistics của tỉnh Quảng Ninh gắn với thương mại biên giới, cảng biển và đặc biệt còn có Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn. Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh cũng luôn là tỉnh đi đầu về cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh khi 5 năm liên tiếp (2017 - 2021) giữ vị trí đứng đầu cả nước về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).
Quá trình hội nhập quốc tế mang lại cho Việt Nam (trong đó có tỉnh Quảng Ninh) nhiều cơ hội và cả thách thức lớn trong phát triển logistics để phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra là làm sao để tỉnh Quảng Ninh phát huy được những lợi thế, tranh thủ được những điều kiện hội nhập quốc tế thuận lợi vào phát triển các loại hình dịch vụ, trở thành trung tâm logistics của cả nước, góp phần thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia giàu mạnh. Để đạt được mục tiêu trên trên cơ sở sự tổng kết thực tiễn, tìm ra những mô hình, giải pháp phù hợp.
Mặc dù, Quảng Ninh là tỉnh có nhiều thuận lợi trong phát triển ngành dịch vụ logistics nhưng thực tiễn cho thấy vẫn còn một số hạn chế khiến logistics của tỉnh chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế, như:
Một là, logistics chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường về các loại hình dịch vụ. Chất lượng dịch vụ, năng lực cạnh tranh của ngành logistics chưa cao, chưa khai thác được tối ưu tiềm năng đang có.
Hai là, sự kết nối của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu chưa được phát huy. Số lượng doanh nghiệp dịch vụ logistics còn ít, kinh nghiệm chưa nhiều, quy mô nhỏ, dẫn đến việc doanh nghiệp trong tỉnh phải sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp logictics tỉnh ngoài.
Ba là, các dịch vụ hậu cần vận tải (đường bộ, đường biển), bốc dỡ, sửa chữa, cung ứng phục vụ cho hoạt động logistics còn thiếu và yếu. Dịch vụ vận chuyển hàng hóa tại tỉnh Quảng Ninh còn phụ thuộc nhiều vào vận chuyển đường bộ, chưa khai thác tối ưu các tuyến thủy nội địa và hệ thống cảng hiện có. Một trong những “điểm nghẽn” lớn nhất của tỉnh Quảng Ninh là kết nối giao thông sau cảng, do khoảng cách từ các cảng của tỉnh đi các tỉnh, thành phố phía Bắc dài hơn so với việc xuất phát từ Hải Phòng, điều này dẫn đến việc tăng phí vận tải nội địa cho các hãng tàu, chủ hàng. Ngoài ra, hầu hết các bến cảng đều là bến tổng hợp và bến container chiếm số lượng rất ít tại khu vực tỉnh Quảng Ninh. Đơn cử như ở Cảng Container quốc tế Cái Lân - vốn là cảng được đầu tư để đón hàng container nhưng sản lượng thông quan vẫn chủ yếu là hàng rời. Hơn nữa, các bến cảng tại khu vực tỉnh Quảng Ninh do nhiều nhà đầu tư vận hành khai thác dẫn đến tình trạng khó quản lý, cạnh tranh gay gắt.
Bốn là, nguồn nhân lực trong công tác tham mưu, quản lý nhà nước về chuyên ngành dịch vụ logistics còn hạn chế cả về kinh nghiệm và thực tiễn, nhiều cán bộ chưa được đào tạo đúng chuyên ngành, không có điều kiện nắm bắt, cập nhật thông tin về ngành, hoặc làm công tác kiêm nhiệm nên hiệu quả công việc chưa đạt yêu cầu đề ra trong tình hình mới. Lực lượng lao động làm việc trực tiếp liên quan đến lĩnh vực dịch vụ logistics còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao.
Giải pháp phát triển ngành logistics
Với nhiều lợi thế phát triển, tỉnh Quảng Ninh đặt mục tiêu trở thành trung tâm logistics của khu vực phía Bắc trong thời gian tới. Chính vì vậy, thời gian tới cần có sự phối hợp đồng bộ từ trên xuống dưới chủ yếu ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý cho việc nâng cao sức cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics. Thực hiện tốt các cam kết quốc tế về dịch vụ logistics, bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp logistics tham gia thị trường; đẩy mạnh hỗ trợ về tài chính với doanh nghiệp logistics, nhất là đối với các lĩnh vực đầu tư, như công nghệ, hạ tầng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thực hiện đồng bộ cơ chế một cửa quốc gia; đơn giản hóa thủ tục hành chính. Hiện nay, khung chính sách, pháp luật về logistics của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa trở thành động lực để thúc đẩy logistics phát triển. Nhiều quy định về thủ tục hành chính còn rườm rà, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong vận hành và triển khai thực hiện; một số quy định về chức năng của các cơ quan quản lý còn chồng chéo, chưa cụ thể, rõ ràng, khó quy trách nhiệm trong xử lý vi phạm; sự kết hợp giữa các cơ quan quản lý chưa hiệu quả.
Thứ hai, doanh nghiệp logistics tỉnh Quảng Ninh chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực tài chính hạn hẹp, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn vay. Do hạn chế về năng lực tài chính dẫn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường dịch vụ logistics bị hạn chế, không phát huy được vai trò trong cung cấp dịch vụ, nhất là ở những hợp đồng dịch vụ có quy mô lớn. Một trong các hướng hỗ trợ nâng cao năng lực tài chính cho doanh logistics là hỗ trợ tiếp cận tín dụng với ưu đãi về thuế suất, giảm điều kiện tiếp cận gói tín dụng để doanh nghiệp có thể bổ sung được nguồn vốn, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng quy mô và thị phần thị trường. Song song với đó, tỉnh Quảng Ninh cần có những chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp logistics áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp logistics trên địa bàn tỉnh; xây dựng thương hiệu doanh nghiệp để tiếp cận thị trường thế giới.
Thứ ba, về phát triển kết cấu hạ tầng giao thông cần đẩy mạnh phát triển hệ thống kho bãi tại các khu vực cảng, bến và khu công nghiệp, khu cửa khẩu, bảo đảm cho việc phát triển logistics gắn với xuất, nhập khẩu hàng hóa. Về kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin cần phát triển đồng bộ, đầy đủ nhằm thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động của các chủ thể logistics trong quản lý hệ thống, hoạch định chính sách, tổ chức sắp xếp, vận chuyển và tiếp nhận hàng hóa một cách nhanh chóng kịp thời và hiệu quả tối ưu nhất.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo đi đôi với việc phát triển nguồn nhân lực logistics chất lượng cao. Phấn đấu đến năm 2025, có 60% doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số thành công. Chuyển đổi số sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động trong ngành dịch vụ logistics khoảng 30% - 35% tùy theo nền tảng số ứng dụng. Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhận lực logistics và nâng cao năng suất lao động sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng dịch vụ đang đòi hỏi ngày càng cao, đáp ứng phục vụ hoạt động logistics ở các thị trường mới và hoạt động logistics tạo ra bởi các hiệp định thương mại tự do. Để thực hiện tốt giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực logistics trong phát triển kinh tế biển trong thời gian tới, tỉnh Quảng Ninh cần tạo các chế độ đãi ngộ về tiền lương, môi trường làm việc, khả năng cơ hội phát triển nhằm thu hút và sử dụng nhân tài trong phát triển logistics. Các doanh nghiệp logistics tỉnh Quảng Ninh cần chủ động đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên thông qua nhiều hình thức khác nhau để góp phần nâng cao chất lượng, năng lực của nguồn nhân lực logistics trên địa bàn tỉnh.
Thứ năm, nhân tố năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp có khả năng tăng năng suất lao động, mở rộng thị phần, tăng lợi nhuận, duy trì lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics là biện pháp cần thiết để phát triển doanh nghiệp logistics. Đối với các doanh nghiệp logistics tỉnh Quảng Ninh hiện nay cần thúc đẩy việc cấu trúc lại bộ máy tổ chức, điều hành của doanh nghiệp theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp của các doanh nghiệp các nước tiên tiến. Trong tổ chức doanh nghiệp cần đặt tiêu chí hiệu quả lên hàng đầu góp phần giảm chi phí hoạt động của doanh nghiệp, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp logistics.
Thứ sáu, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thị trường dịch vụ logistics có vai trò quan trọng trong kết nối cung - cầu về dịch vụ logistics giữa các chủ thể nhằm đạt được hiệu quả tối ưu. Vì vậy, việc nắm bắt, cập nhật thông tin từ thị trường cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách logistics có ý nghĩa quan trọng giúp đưa ra các chính sách phát triển phù hợp, sát thực tiễn.
Thứ bảy, triển khai mở văn phòng đại diện tại nước ngoài, mở rộng thị trường logistics ngách sẽ giúp các doanh nghiệp dịch vụ logistics tăng thêm cơ hội việc làm trong điều kiện chuỗi cung ứng toàn cầu đang chuyển dịch có lợi cho Việt Nam. Tỉnh cần nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách đủ mạnh để thu hút đầu tư vào các khu kinh tế, giúp chủ động tạo ra được nguồn hàng. Đặc biệt, Chính phủ đang khuyến khích phát triển thương mại chính ngạch với Trung Quốc, nhất là hàng nông sản, do đó, tỉnh Quảng Ninh cần tập trung đầu tư về phương tiện, kho để lưu giữ, kho lạnh để bảo quản hàng hóa./.
Tỉnh Quảng Ninh thúc đẩy tạo liên kết vùng đồng bằng sông Hồng trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao  (09/09/2023)
Huyện Ba Chẽ tập trung nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội  (02/08/2023)
Đổi mới giáo dục ở tỉnh Quảng Ninh nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu tình hình mới  (31/07/2023)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay