Vấn đề phục hồi và phát triển kinh tế trong trang thái bình thường mới đang đặt ra cấp bách trong phạm vi quốc gia và ở từng địa phương. Quảng Ninh đang tập trung thực hiện 3 đột phá chiến lược, trong đó coi trọng cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp; đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là về giao thông, năng lượng, hạ tầng số, nông nghiệp, nông thôn; tiết kiệm chi thường xuyên để tăng đầu tư phát triển, gắn với tái cơ cấu đầu tư công, tháo gỡ các nút thắt, những điểm nghẽn để khơi thông, kết nối, tổ chức lại nguồn lực phát triển theo mô hình lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, tạo đột phá trong huy động hợp tác công - tư.

1. Phục hồi và phát triển kinh tế trong trang thái bình thường mới - bối cảnh chung và vấn đề đặt ra cho đột phá thể chế về đất đai của Quảng Ninh

 Hiện nay, vấn đề phục hồi và phát triển kinh tế trong trang thái bình thường mới đang đặt ra cấp bách trong phạm vi quốc gia và ở từng địa phương, điều này không chỉ riêng đối với Việt Nam mà tất cả các quốc gia trên thế giới, tùy theo mức độ tác động của làn sóng thứ tư, đại dịch COVID-19, đặc biệt là trước biến thể mới Omicron. Năm 2021, kinh tế thế giới phục hồi nhưng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, một số nền kinh tế lớn có mức tăng trưởng khả quan, nhưng giảm so với các dự báo trước đó, như Mỹ dự kiến đạt 6%, Trung Quốc 8,1 %, Nhật Bản 2,4%. Tăng trưởng của các nước đang phát triển giảm mạnh do tác động của dịch bệnh, trong đó dự báo ASEAN chỉ đạt 2,6%. Do tình hình phức tạp của biến thể mới, nhiều nước đưa ra các biện pháp mạnh, hạn chế rủi ro, nhưng ảnh hưởng lớn đến phục hồi và phát triển kinh tế như: i) Cấm các công dân đến các quốc gia miền Nam châu Phi. ii) Hạn chế, siết chặt kiểm soát, xét nghiệm hoặc cấm nhập cảnh đối với người nước ngoài đã đi qua các quốc gia này. iii) Tăng số ngày cách ly với công dân trở về từ các nước có tỷ lệ mắc biến thể mới cao. iv) Siết chặt các biện pháp phòng ngừa, hạn chế tập trung đông người nơi công cộng. Diễn biến này cùng với những yếu tố bất lợi khác, theo IMF, làm xuất hiện một số vấn đề phức tạp mới trong tháng cuối của năm 2021 và có thể kéo dài đến hết quý I, năm 2022, đó là: i) Giá năng lượng, lương thực và thực phẩm tăng cao. ii) Tiếp tục đứt gẫy chuỗi cung ứng toàn cầu. iii) Tiền lương của người lao động gia tăng ở một số ngành, lĩnh vực do thiếu nguồn cung. iv) Các chính sách hỗ trợ giảm thuế, phí…hết hiệu lực dẫn đến giá cả tăng, nguy cơ lạm phát. Bởi vậy, xu hướng chung các quốc gia trên thế giới là thích ứng với dịch bệnh, đồng thời ưu tiên động lực tăng trưởng dài hạn và tập hợp lực lượng thông qua các liên kết quốc tế. Thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tập trung vào 2 ưu tiên: Một là, củng cố các động lực tăng trưởng truyền thống thông qua đẩy mạnh đầu tư công vào kết cấu hạ tầng, cải cách thể chế. Hai là, tận dụng các động lực mới để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trọng tâm là tăng trưởng xanh, kinh tế số.

 Năm 2021 Việt Nam có nhiều sự kiện quan trọng, là năm đầu tiên triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong đó có Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và kế hoạch 5 năm 2021 - 2025. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do tác động của đại dịch COVID-19, nhưng kinh tế - xã hội đất nước vẫn đạt được một số kết quả quan trọng. Tổng sản phẩm trong nước GDP đạt 2,58%, trong đó quý III giảm 6,02 %; quý IV tăng 5,22%. Nông - Lâm - Thủy sản tăng 2,9%; công nghiệp và xây dựng tăng 4,05%; dịch vụ tăng 1,22%. Cơ cấu kinh tế thực tế hiện nay là: công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; dịch vụ chiếm 40,95%; Nông - Lâm - Thủy sản chiếm 12,36%, ngoài ra thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%. Thu ngân sách cả năm ước đạt trên 1.523 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán năm, tăng 3,2 % so với năm 2020. Tổng vốn đầu tư nước ngoài tính đến ngày 20-12-2021 đạt 31,15 tỷ USD, tăn 9,2% so với trước. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19%; kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25%, tăng 26,5% so với trước.

Trong bối cảnh đó, cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, tăng trưởng kinh tế của Quảng Ninh phụ thuộc nhiều vào việc kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19. Là một địa phương có tỷ lệ tiêm chủng cao trong cả nước, đặc biệt là đã hoàn thành 2 bộ dữ liệu lớn về nền tảng xét nghiệm và dữ liệu nhân khẩu học, dịch tễ học; trang bị đồng bộ trí tuệ nhân tạo AL để kiểm soát người tại các điểm ra, vào tỉnh. Năm 2021, Quảng Ninh ước đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP đạt 10,28%, cao hơn 1,07 điểm so với cùng kỳ, là mức tăng trưởng cao, đứng thứ 2 so với các tỉnh, thành phố trong cả nước (sau Hải Phòng 12,38%) thu ngân sách trên địa bàn ước đạt trên 51.000 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu Trung ương giao và dự toán Hội đồng nhân dân giao đầu năm, nằm trong nhóm các địa phương dẫn đầu cả nước. Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng khá, tăng trưởng 14,59%, đóng góp 7,33 điểm % mức tăng trưởng chung, chiếm 52,9% trong GRDP. Tổng thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách đạt trên 360.000 tỷ đồng.

Quảng Ninh trong kế hoạch, có 3 công trình trọng điểm hoàn thành là cầu cửa Lục 1, đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái và đường ven biển nối Hạ Long với Cẩm Phả. Tháng 10-2021 khởi công 4 dự án trọng điểm, là động lực phát triển kinh tế của tỉnh giai đoạn 2021 - 2025 với tổng số vốn lên tới 280.000 tỷ đồng, gồm: dự án khu đô thị phức hợp Hạ Long xanh (thành phố Hạ Long và thị xã Quảng Yên), sân golf Đông Triều (thị xã Đông Triều), Nhà máy điện khí LNG Quảng Ninh (thành phố Cẩm Phả) và bến cảng tổng hợp Vạn Ninh (thành phố Móng Cái).

Năm 2022, Quảng Ninh xác định trụ cột tăng trưởng là tập trung cho công nghiệp, xây dựng; trong đó tăng nhanh tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo, trọng tâm là các dự án FDI thế hệ mới; ổn định và phát triển bền vững ngành than; các dự án trọng điểm đầu tư công, FDI, đầu tư ngoài ngân sách, khu vực dân doanh... Đồng thời đẩy mạnh cơ cấu lại và phát triển một số ngành, lĩnh vực quan trọng mà Quảng Ninh đang có lợi thế, như: thương mại biên giới, xuất nhập khẩu, thương mại điện tử, dịch vụ, logistics, vận tải, hàng không, cảng biển; phát triển bền vững nông - lâm - thủy sản, trọng điểm là thủy sản. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh phát triển liên kết vùng, khu kinh tế, khu công nghiệp và phát triển đô thị, kinh tế đô thị, đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các kế hoạch; xây dựng nông thôn mới.

Với chủ trương tập trung thực hiện 3 đột phá chiến lược, trong đó coi trọng cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp; đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là về giao thông, năng lượng, hạ tầng số, nông nghiệp, nông thôn; tiết kiệm chi thường xuyên để tăng đầu tư phát triển, gắn với tái cơ cấu đầu tư công, tháo gỡ các nút thắt, những điểm nghẽn để khơi thông, kết nối, tổ chức lại nguồn lực phát triển theo mô hình lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, tạo đột phá trong huy động hợp tác công - tư. Từ đó huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế để phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là hạ tầng giao thông, dịch vụ, khu công nghiệp, khu kinh tế. Với chủ đề của năm 2022 là: “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19; giữ vững đà tăng trưởng; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”, xác định tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt trên 10%. Tổng thu ngân sách trên địa bàn không thấp hơn 52.600 tỷ. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng trên 10%; thu hút FDI đạt ít nhất 1,5 tỷ USD. Thu hút được 9,5 triệu lượt khách du lịch, trong đó 8,0 triệu lượt khách nội địa và 1,5 triệu khách quốc tế.

Thực tế cho thấy, thành công của Quảng Ninh có được cho đến nay, có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất vẫn là tầm nhìn, hướng ưu tiên tập trung thế mạnh, lựa chọn khâu đột phá, quyết liệt trong tổ chức thực hiện, trong đó có vấn đề về thể chế trong quản lý, phân bổ và sử dụng đất đai đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương qua từng giai đoạn. Với kết quả đạt được nêu trên và định hướng phát triển cho giai đoạn 2021 - 2025, bên cạnh yêu cầu cần tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19, một số yêu cầu đặt ra cho việc tạo đột phá thể chế trong quản lý, phân bổ và sử dụng đất đai, đáp ứng yêu cầu phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội của Quảng Ninh trong trạng thái bình thường mới như sau:

Một là, thể chế về quản lý, phân bổ và sử dụng đất đai phải đáp ứng được nhu cầu giải phóng các nguồn lực, phát huy tiềm năng, thế mạnh và không gian phát triển rộng lớn, dài hạn với những hạn chế chung về cơ chế, chính sách hiện hành về đất đai, giữa yêu cầu phát triển của địa phương với kết nối liên kết vùng.

Hai là, giữa quy hoạch, phân bổ, sử dụng đất đáp ứng yêu cầu khai thác than, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phát triển công nghiệp nặng với phát triển du lịch, dịch vụ trên cùng một địa bàn.

Ba là, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững, đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, bình đẳng trong cơ hội tiếp cận nguồn lực đất đai với phát huy hiệu quả trong quản lý, phân bổ và sử dụng đất.

Bốn là, giữa phát triển kinh tế với góp phần bảo đảm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ khu vực biên giới; đồng bộ với các thể chế, chính sách và định hướng phát triển lâu dài của Quảng Ninh

Năm là, giữa đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa với phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu đến năm 2025 trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại; đến năm 2030 là tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, hiện đại.

2. Một số đột phá về thể chế trong quản lý, phân bổ và sử dụng đất đai, đáp ứng yêu cầu phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội Quảng Ninh trong trạng thái bình thường mới

Kết luận số 20-KL/TW của Hội nghị lần thứ tư, khóa XIII về kinh tế - xã hội năm 2021 - 2022 đã xác định mục tiêu thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng của nhân dân, cùng với tập trung tận dụng tốt các cơ hội để thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội có nhấn mạnh: “Tiếp tục ưu tiên rà soát, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật… quản lý chặt chẽ đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lới, khơi thông các nguồn lực cho phát triển”.

Trong 12 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, Nghị quyết 01 của Chính phủ vừa ban hành, để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2022, có 3 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trực tiếp về vấn đề này, đó là: i). Tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, theo đó tập trung ưu tiên triển khai đồng bộ, hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 và chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, thực sự thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. ii). Xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật, tập trung thể chế hóa những định hướng chính sách của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp. iii). Quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường; chủ động phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển các ngành kinh tế biển, điện gió ngoài khơi; quản lý bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước, bảo đảm an ninh nguồn nước.

Điều này càng cho thấy tầm quan trọng của hoàn thiện thể chế phát triển, trong đó có thể chế về đất đai, đáp ứng yêu cầu phục hồi, phát triển kinh tế trong điều kiện bình thường mới ở Quảng Ninh. Trên cơ sở rà soát lại 45 văn bản quy phạm pháp luật về đất đai theo thẩm quyền của Quảng Ninh, cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện, cho thấy những hạn chế, bất cập về vấn đề này của địa phương, như sau:

Một là, về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, chất lượng công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, thường xuyên phải điều chỉnh, bổ sung, cập nhật, tính dự báo chưa cao. Việc thực hiện đăng ký nhu cầu sử dụng đất chưa tốt, dẫn tới giao chỉ tiêu sử dụng đất chưa sát, một số chỉ tiêu sử dụng đất không đạt kế hoạch; còn vướng mắc về quy trình, thủ tục hành chính, bố trí vốn, giải phóng mặt bằng gây lãng phí nguồn lực đất đai.

Hai là, vướng mắc trong quá trình thực hiện giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Quá nhiều các thủ tục đầu tư, xây dựng liên quan đến phê duyệt, giao đất trong quá trình triển khai dự án; việc sử dụng đất đô thị trong các khu công nghiệp, khu kinh tế có nơi chưa hiệu quả, tỷ lệ lấp đầy có nơi chưa cao; việc quản lý các dự án được giao đất, cho thuê đất trên địa bàn chưa chặt chẽ, còn tình trạng dự án triển khai không đúng tiến độ, sử dụng đất sai quy hoạch phải điều chỉnh. Tình trạng quy hoạch “treo”, dự án “ treo” còn diễn ra.

Ba là, việc thu hồi đất các trường hợp được giao, cho thuê đất nhưng sử dụng lãng phí, không hiệu quả, chậm đưa vào sử dụng còn nhiều hạn chế, do quy định về bồi thường, hỗ trợ tài sản đã đầu tư chính đáng còn bất cập nên gặp nhiều khó khăn. Một số trường hợp do yếu tố khách quan, như: dịch bệnh, giải phóng mặt bằng, thị trường… chưa quy định hợp lý nên khó thu hồi.

Bốn là, về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất còn nhiều bất cập do cơ chế bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp chậm thay đổi, không sát thực tế; một số địa phương có quỹ đất tái định cư hạn chế, dẫn tới ảnh hưởng tiến độ giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó, nhiều dự án lớn ở Hạ Long, Cẩm phả, Vân Đồn, Móng Cái, nhưng do lực lượng làm công tác giải phóng mặt bằng hạn chế, làm ảnh hưởng chung đến tiến độ. Còn nhiều thủ tục hành chính, thủ tục rườm rà, ứng dụng công nghệ trong quản lý còn chậm.

Năm là, vấn đề đăng ký đất đai, đo đạc, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; chính sách bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất còn nhiều bất cập. Việc cập nhật, chỉnh lý biến động trên bản đồ địa chính chưa sát với thực tế sử dụng đất, thậm trí còn sai sót; tình trạng mua bán, chuyển nhượng, hiến tặng, giải quyết tranh chấp đất đai trong một số trường hợp chưa quản lý hiệu quả, kể cả đất tôn giáo, đất quốc phòng; hiện nay người sử dụng đất không có quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng ở nước ngoài; thị trường bất động sản còn chưa minh bạch; khung giá đất do Chính phủ ban hành chưa phù hợp với thực tế, chưa sát với giá thị trường; việc xác định giá đất còn chậm; dữ liệu quản lý đất đai chưa đầy đủ…

Trong điều kiện chưa có văn kiện mới của Trung ương thay thế Nghị quyết 19-NQ/TW, khóa XI; chưa sửa căn bản một số nội dung còn bất cập trong Luật Đất đai 2013 và các luật liên quan, để sớm được khắc phục các bất cập nêu trên, tạo tiền đề phát triển trong thời gian tới, vấn đề khơi thông nguồn lực đất đai, đáp ứng yêu cầu phát triển Quảng Ninh trong giai đoạn tới, từ năm 2021 đến năm 2030, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đặc biệt là, khi địa phương đang triển khai nhiều công trình hạ tầng quy mô lớn, nhiều dự án đầu tư nước ngoài chất lượng cao và thúc đẩy phát triển đô thị, sinh thái, phục vụ phát triển du lịch, phát triển kinh tế - xã hội, tạo sự bứt phá để Quảng Ninh thực sự là cực tăng trưởng mạnh trong vùng động lực kinh tế phía Bắc.

Các đột phá thể chế về quản lý, phân bổ và sử dụng đất đai đáp ứng yêu cầu phục hồi, phát triển kinh tế của Quảng Ninh trong trạng thái bình thường mới, cần tập trung cả ngắn hạn, trung và dài hạn. Tình hình dịch COVID-19 ở Việt Nam còn diễn biến phức tạp, thế giới hiện nay chưa dự báo hết những biến thể và thời gian kết thúc, do đó trạng thái bình thường mới, thích ứng linh hoạt, cũng đòi hỏi phải có các giải pháp linh hoạt, kết hợp các giải pháp căn bản, lâu dài. Cho đến hiện nay, xu hướng chung của nhiều quốc gia mở cửa linh hoạt, kết hợp kiểm soát, chung sống với dịch COVID gắn với phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), nếu làn sóng lây nhiễm lớn biến chủng Omicron, GDP toàn cầu năm 2022 có thể giảm 0,5%, lạm phát các nước phát triển là 2,3%, các nước đang phát triển là 4,9%. Đồng thời, tăng trưởng toàn cầu sẽ “giảm tốc” rõ rệt, từ 5,5% trong năm 2021 xuống còn 4,1 % vào năm 2022 và giảm tiếp xuống còn 3,2% vào năm 2023. Kinh tế Mỹ từ 5,6% năm 2021 xuống mức 3,7% năm 2022 và 2,6% năm 2023. Kinh tế Trung Quốc từ 8% năm 2021, xuống mức 5,1% năm 2022 và 5,2 % năm 2023. Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ giảm từ 6,3% năm 2021 xuống mức 4,6% năm 2022 và dưới 4% vào năm 2023. Trong điều kiện đó, kinh tế Việt Nam, năm 2021 tăng trưởng 2,58%, dự kiến tăng trưởng từ 6-6,5% vào năm 2022 và 7 % vào năm 2023. Quảng Ninh là địa phương có mức tăng trưởng hơn 10 % năm 2021 và phấn đấu năm 2022 có mức tăng cao hơn. Đây vừa là cơ hội, cũng là một thách thức với Quảng Ninh, một địa phương có biên giới, biển và đồi núi, đất liền, nhiều tiềm năng phát triển, độ mở kinh tế lớn nhưng cũng dễ bị tác động từ bên ngoài. Trong nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội thích ứng trạng thái bình thường mới, cũng với việc kiểm soát dịch bệnh COVID-19, vấn đề tìm đột phá về thể chế quản lý, phân bổ và sử dụng đất đai có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Trong ngắn hạn, trên cơ sở quy định hiện hành của Luật Đất đai 2013, cũng như chưa có văn bản mới thay thế Nghị quyết 19-NQ-TW, khóa XI và điều kiện đặc thù của địa phương, cần tiếp tục hoàn thiện một số thể chế về đất đai liên quan đến các dự án đầu tư hạ tầng lớn, dự án về du lịch, an sinh xã hội; một số lĩnh vực liên quan đến phát triển công nghiệp, dịch vụ, tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm tiếp theo.

Về trung và dài hạn, trên cơ sở Luật Đất đai sửa đổi dự kiến sẽ được thảo luận và thông qua trong năm 2022, Quảng Ninh cần tập trung một số giải pháp đột phát thể chế về đất đai như sau:

- Về quản lý đất đai: Hoàn thiện thể chế về đổi mới, nâng cao tính liên kết, đồng bộ giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng, quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng đất theo hướng lấy quy hoạch sử dụng đất là căn cứ đầu vào, tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lý, sử dụng đất hiệu quả. Quy hoạch xây dựng và quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất phải phù hợp với các chỉ tiêu, tiến độ đã được phân bổ trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với đất có tài sản công. Sắp xếp, cơ cấu lại để nâng cao hiệu quả sử dụng đất các công ty lâm nghiệp, nếu không hiệu quả thì giải thể, chuyển đổi doanh nghiệp để quản lý và sử dụng đất có hiệu quả. Kiện toàn, nâng cao năng lực của tổ chức có chức năng phát triển quỹ đất nhằm thực thi có hiệu quả nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất. Coi trọng hoàn thiện các quy định về xác định giá đất, đảm bảo thực sự là công cụ quan trọng trong quản lý, phân bổ và sử dụng đất. Phân cấp mạnh mẽ việc thu hồi, phê duyệt phương án bồi thường, giá đất cho Ủy ban nhân dân cấp huyện.

- Về phân bổ đất đai: Thu hẹp các đối tượng được giao đất và mở rộng đối tượng được thuê đất. Việc giao, cho thuê đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện chủ yếu thông qua đấu giá, đấu thầu quyền sử dụng đất; mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng. Tập trung rà soát, xử lý dứt điểm những trường hợp đất đã giao cho các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội nhưng không sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích, trái pháp luật. Thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất khi sắp xếp lại trụ sở, cơ sở làm việc thuộc sở hữu nhà nước để chuyển sang mục đích phát triển kinh tế.

- Về sử dụng đất đai: Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế, bảo đảm xử lý nghiêm, dứt điểm các trường hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhưng sử dụng không hiệu quả, lãng phí, chậm đưa đất vào sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích, đầu cơ đất. Hoàn thiện chế độ, cơ chế sử dụng đất đối với một số loại hình mới xuất hiện trong một số năm gần đây, như: oficetel, condotel, hometel... cũng như các dự án thực hiện theo hình thức đối tác công tư.

Hoàn thiện thể chế nhằm tạo quỹ đất sạch để đấu giá quyền sử dụng đất; mở rộng và quy định rõ ràng, cụ thể các trường hợp Nhà nước thực hiện thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển các dự án kinh tế, xã hội./.

------------------------

(1) Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

(2) Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 19- NQ/TW.

(3) Báo cáo của tỉnh ủy Quảng Ninh, tháng 7-2021 về một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.

(40 Hội Luật gia Việt Nam, Báo cáo chuyên đề “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới ở Việt Nam”.