Tiêu dùng

Tiêu dùng được coi là phương thức đầu tiên trong mục tiêu phát triển kinh tế mà các quốc gia đều hướng tới bởi điều này liên quan mật thiết đến cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Hiện nay, tiêu dùng đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, đồng thời tiêu dùng cũng là lĩnh vực liên quan mật thiết đến chất lượng cuộc sống của người dân. Sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát, sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia đều bị cản trở. Một trong những biểu hiện nổi bật chính là tốc độ tiêu dùng của người dân đã giảm đáng kể. Cả nền kinh tế thực và mua sắm trực tuyến đều bị ảnh hưởng ở một mức độ nhất định, do đó đã làm chậm lại sự phát triển kinh tế đất nước.

Vậy tiêu dùng có tác dụng gì đối với sự phát triển kinh tế? Thứ nhất, tiêu dùng điều chỉnh việc sản xuất hàng hóa theo nhu cầu thị trường. Ngoài ra, nó cũng có thể đóng một vai trò định hướng quan trọng trong việc nâng cấp cơ cấu và kỹ thuật của các doanh nghiệp sản xuất. Tiêu dùng có thể được chia thành hai khía cạnh. (1) khi mức độ sẵn sàng tiêu dùng của người dân bắt đầu tăng lên, lợi ích tạo ra có thể thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp liên quan. Các doanh nghiệp sau khi gặt hái được nhiều thành quả sẽ sẵn sàng tập trung hơn vào việc mở rộng quy mô sản xuất và cải tiến sản phẩm theo nhu cầu thực tế; (2) các doanh nghiệp sản xuất liên quan sẽ thực hiện chuyển đổi cơ cấu, nâng cấp theo nhu cầu tiêu dùng của người dân. Doanh nghiệp sẽ thực hiện thay đổi theo sự lựa chọn mà mọi người có xu hướng tiêu dùng trong quá trình tiêu dùng và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng bằng cách thay đổi cơ cấu sản xuất. Thứ hai, tiêu dùng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi và nâng cấp cơ cấu công nghiệp, điều này sẽ dẫn đến những thay đổi trong toàn bộ ngành sản xuất và tối ưu hóa cơ cấu trong phát triển kinh tế của đất nước.

Đất nước ta đang ở trong một giai đoạn phát triển mới, trong đó vai trò của tiêu dùng là đặc biệt quan trọng và thậm chí đã trở thành cơ sở để thúc đẩy phát triển kinh tế. Để thúc đẩy quá trình lưu thông tiền tệ trên thị trường, có thể nói bản thân hoạt động tiêu dùng chính là điểm xuất phát và cũng là điểm kết thúc của các hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế bắt nguồn từ tiêu dùng và cuối cùng kết thúc bằng hành vi tiêu dùng. Những hoạt động này thường theo một chu kỳ và phản ánh nhu cầu và mức tiêu thụ cuối cùng của thị trường. Ở cấp độ quốc gia, tổng chi tiêu tiêu dùng là mức độ đóng góp thực tế nhất vào sự phát triển kinh tế.

Nâng cấp tiêu dùng thúc đẩy phát triển kinh tế. Theo quan điểm của người dân, mức độ tiêu dùng thực sự liên quan đến khả năng chi tiêu của người tiêu dùng, niềm tin của người tiêu dùng và sự sẵn sàng tiêu dùng. Nếu các nhà sản xuất có thể nâng cấp cơ cấu công nghiệp để phù hợp với người tiêu dùng, điều đó sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của toàn thị trường. Nâng cấp và chuyển đổi các phương thức cũ, truyền thống cũ, để nền kinh tế thị trường nâng cấp chất lượng và số lượng phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng và phù hợp với tốc độ phát triển của từng quốc gia.

Trước nhu cầu và thực tiễn khách quan của quá trình phát triển, các mô hình chia sẻ đã được áp dụng rộng rãi và phổ biến trên nền tảng kết nối internet và xuất hiện thêm các giao dịch kinh tế từ các mô hình chia sẻ này đã hình thành nên một phạm trù mới là kinh tế chia sẻ. Các giao dịch kinh tế phổ biến hiện nay là chi trả tiền thuê tài sản và một khoản phí nhỏ cho nền tảng cung cấp dịch vụ kết nối.

Phát triển các mô hình kinh tế chia sẻ thúc đẩy tiêu dùng bền vững được tiếp cận theo vòng đời sản phẩm, tăng cường liên kết giữa các khâu từ khai thác chế biến nguyên nhiên liệu đến sản xuất, phân phối hàng hóa, cung cấp dịch vụ, tiêu dùng và thải bỏ nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, giảm thiểu chất thải, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. Phát triển các mô hình kinh tế chia sẻ là thúc đẩy các hoạt động hợp tác chia sẻ, trao đổi các nguồn lực chưa được sử dụng hoặc không sử dụng hết nhằm gia tăng hiệu quả sản xuất và tiêu dùng trong mỗi ngành, lĩnh vực hướng đến mở rộng quy mô áp dụng liên ngành, liên lĩnh vực góp phần thúc đẩy sản xuất tiêu dùng bền vững. Trong lĩnh vực tiêu dùng, các mô hình kinh tế chia sẻ đã phát triển mạnh mẽ dưới nhiều dạng thực khác nhau như cho vay xã hội, thuê nhà chung, cùng thuê dịch vụ du lịch, chia sẻ xe hơi cá nhân v.v... hay có thể cho thuê bất cứ thứ gì đang không sử dụng thậm chí cả nhà máy hay máy móc,... thông qua các công ty môi giới hoặc kết nối thông tin trên internet mà bên thuê và bên cho thuê biết rõ thông tin của nhau. Thông qua sự hỗ trợ của thiết bị công nghệ cao trong bối cảnh phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cơ sở hạ tầng cứng và hạ tầng mềm có thể đáp ứng tốt kết nối trong mô hình kinh tế chia sẻ. Nói cách khác, bản chất của mô hình kinh tế chia sẻ trong tiêu dùng là mô hình kinh doanh của kinh doanh ngang hàng, tận dụng lợi thế của công nghệ số giúp tiết kiệm chi phí giao dịch và tiếp cận số lượng lớn khách hàng thông qua các nền tảng số.

Đầu tư

Một phương thức khác nhằm hướng tới tăng trưởng kinh tế rất quan trọng ở nước ta hiện nay đó là đầu tư. Khi nhắc đến đầu tư, chúng ta thường nghĩ đến việc chính phủ khuyến khích đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, từ đó thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến tham gia. Thông qua việc xây dựng các dự án mới, sự phát triển kinh tế địa phương sẽ được thúc đẩy, từ đó tạo ra nguồn thu GDP. Đây là cách phổ biến nhất để kích thích tăng trưởng kinh tế trong tình hình hiện nay. Bằng cách thu hút đầu tư và tạo ra các điểm tăng trưởng kinh tế mới cho khu vực, có thể xây dựng một dự án hoàn toàn mới và liên quan đến nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Ví dụ, việc xây dựng một nhà máy mới cần có sự tham gia của ngành xây dựng, và việc bảo đảm môi trường sau đó đòi hỏi những ngành công nghiệp tương ứng để phụ trợ. Do đó, một dự án hoàn toàn mới có thể mang lại cơ hội phát triển cho nhiều ngành trong toàn khu vực, từ đó thúc đẩy sự phát triển của ngành.

Đầu tư cần thận trọng

Một khoản đầu tư thành công sẽ mang lại nhu cầu lao động mới cho khu vực, không chỉ thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng ngày của người dân địa phương mà còn thu hút lực lượng lao động nhập cư. Tiềm năng phát triển kinh tế do sự dịch chuyển lực lượng lao động này mang lại là rất lớn, bên cạnh đó còn thúc đẩy chi tiêu trong khu vực. Ngoài ra, mỗi dự án mới tạo ra doanh thu cho chính phủ và doanh thu cho khu vực. Bằng cách này, chính phủ có thể tăng cường đầu tư và thu hút thêm nhiều nguồn đầu tư chất lượng cao đến khu vực. Cuối cùng, chúng ta sẽ thấy rằng nó tạo thành một phản ứng dây chuyền và tạo ra lợi nhuận nhiều hơn là một khoản đầu tư. Hình thức đầu tư để hình thành chuỗi công nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với mỗi thị trường khu vực.

Đầu tư mang lại lợi ích kinh tế to lớn

Những hình thức đầu tư mang lại lợi ích kinh tế to lớn chính là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư nước ngoài có vai trò rất lớn cho việc phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nhận đầu tư thông qua việc mang lại những lợi ích như:

Một là, vốn, công nghệ và kỹ thuật quản lý (chuyển giao nguồn lực). Đối với một nước lạc hậu, trình độ sản xuất thấp, năng lực sản xuất không được phát huy, kèm với cơ sở vật chất, kỹ thuật nghèo nàn thì việc tiếp nhận được một nguồn vốn lớn, công nghệ phù hợp để tăng năng suất và cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao trình độ quản lý là một điều hết sức cần thiết, vì công nghệ là trung tâm của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số quốc gia đang phát triển. Khi đầu tư trực tiếp diễn ra thì công nghệ mới, hiện đại được du nhập vào nước nhận đầu tư; chuyên gia cùng với các kỹ năng quản lý góp phần nâng cao hiệu quả của công nghệ này, từ đó công chức, viên chức nhà nước, người lao động, doanh nghiệp bản địa có thể học hỏi kinh nghiệm của họ. Những hoạt động chuyển giao công nghệ (bao gồm cả năng lực quản lý và marketing) khó đo lường hơn so với các luồng chảy vào và phần lớn việc chuyển giao đã diễn ra ở công ty mẹ ở nước ngoài và các chi nhánh của chúng. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tầm quan trọng của hoạt động chuyển giao công nghệ trong nội bộ các công ty như thế tùy thuộc vào những chuyển giao từ các phía khác nhau.

Hai là, tăng năng suất, thu nhập quốc dân và thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế. Công nghệ và trình độ quản lý được cải thiện đối với các ngành sản xuất thì việc tăng năng suất lao động là điều tất yếu. Không những thế, công nghệ tiên tiến sản xuất nhiều sản phẩm hơn, có chất lượng cao, nhiều tính năng, mẫu mã đa dạng và giá thành cạnh tranh hơn. Từ đó thúc đẩy sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế.

Ba là, khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước. Khi đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào các thị trường vốn hiện có mà các nhà đầu tư trong nước chiếm giữ phần lớn thị phần, tuy nhiên ưu thế này sẽ không kéo dài đối với nhà đầu tư trong nước khi nguồn lực, công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài vượt trội hơn. Chính vì vậy, muốn tồn tại, các nhà đầu tư trong nước phải đổi mới cả quá trình sản xuất của mình từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ bằng việc cải tiến công nghệ và nâng cao trình độ, phương pháp quản lý để có thể trụ vững trên thị trường đó. Đây chính là một trong những thử thách tất yếu của nền kinh tế thị trường đối với các nhà sản xuất trong nước, vối quy luật là không có kẻ yếu nào có thể tồn tại nếu không tự làm mình mạnh lên để tồn tại, phát triển trong cơ chế đó.

Bốn là, tiếp cận với thị trường nước ngoài. Nếu như là trước đây khi chưa có FDI, các doanh nghiệp trong nước chỉ biết đến có thị trường trong nước, nhưng khi có FDI thì họ được làm quen với các đối tác kinh tế mới từ nước ngoài. Họ chắc chắn sẽ nhận thấy rất nhiều nơi cần cái họ đang có và ngược lại họ cũng đang cần những cái ở nơi đối tác đang có. Điều này dẫn tới nhu cầu phải tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp trong nước và ngoài nước mà hệ quả của nó là có nhiều sản phẩm của một quốc gia được xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho đất nước, đồng thời cũng cần phải nhập khẩu một số loại mặt hàng mà trong nước đang cần. Việc trao đổi thương mại này sẽ lại thúc đẩy các công cuộc đầu tư quốc tế giữa các nước vối nhau. Như vậy, quá trình đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế có quan hệ biện chứng, là một quá trình luôn luôn thúc đẩy nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển.

Xuất khẩu

Xuất khẩu chính là một kiểu tiêu dùng, nhưng ở cấp độ quốc gia, bản thân tiêu dùng là một cách tiêu thụ tài nguyên từ bên trong và cuối cùng những tài nguyên này sẽ được người dân mua và sử dụng. Sau khi xuất khẩu, sản phẩm được bán ra nước ngoài, và người dân các nước khác phải trả tiền. Có như vậy nước ta mới thu được ngoại hối từ đó kích thích nền kinh tế phát triển. Trong con mắt của nhiều nhà kinh tế học hiện đại, xuất khẩu có thể được coi là sự mở rộng tiêu dùng trong nước. Các cách thức thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu có thể kể đến như:

Giao thông đường biển đang bùng nổ

Khi đất nước sản xuất đủ mặt hàng, không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, sau đó có thể xuất khẩu ra nước ngoài để thu thêm lợi nhuận, điều này rất có lợi cho sự phát triển của đất nước. Một mặt, thường xuyên xuất khẩu qua các nước trên thế giới không những có thể ổn định quan hệ quốc tế mà còn tạo cơ hội giao lưu quốc tế, thúc đẩy trao đổi công nghệ giữa các nước. Trên thực tế, chính là để giúp phát triển công nghệ của đất nước. Mặt khác, nguồn ngoại hối thu được có thể được sử dụng để đầu tư và thúc đẩy những ngành sản xuất mới. Khi nguồn thu này được sử dụng vào đầu tư và sản xuất ở những lĩnh vực, ngành nghề phù hợp sẽ mang lại kết quả tốt hơn so với kế hoạch ban đầu. Có như vậy mới thúc đẩy được sự phát triển của sản xuất trong nước và tăng trưởng kinh tế trong nước, có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung.

Xuất khẩu thúc đẩy nền kinh tế khu vực

Sự xuất hiện của dịch bệnh COVID-19 đã làm cho nền kinh tế thế giới trì trệ. Bởi thứ nhất, những hạn chế do dịch bệnh COVID-19 gây ra đã ảnh hưởng đến sản xuất, công việc của người dân không còn được thuận lợi như trước; thứ hai, do thu nhập của người dân giảm sút nên ham muốn tiêu dùng cũng giảm đi rất nhiều. Nhiều nước vì thế đã cắt giảm trao đổi thương mại quốc tế. Có thể thấy, xuất khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Nhưng tuy nhiên, đây không phải là giải pháp lâu dài nếu chỉ đơn giản sản xuất như một nhà máy để xuất khẩu sản phẩm cho các nước khác. Vì quốc gia nào cũng có nhập khẩu và xuất khẩu. Nếu trình độ công nghệ và chất lượng sản phẩm của nước ta kém thì sẽ gặp bất lợi trong cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, chúng ta vẫn cần quan tâm đến khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ cốt lõi, để tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước ta.

Có thể nói, phát triển kinh tế luôn là yếu tố quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của đất nước. Đối với bên ngoài, nó có nghĩa là sức mạnh quân sự và sức mạnh cạnh tranh của đất nước, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế của nước ta trên trường quốc tế, nhằm bảo đảm chủ quyền của chúng ta. Chỉ có sự thịnh vượng và phát triển của nền kinh tế mới có thể bảo đảm mức sống và chất lượng cuộc sống của mỗi người dân. Bên cạnh đó, một nền kinh tế phát triển sẽ kết nối con người lại với nhau. Chỉ có môi trường kinh tế lành mạnh và ổn định mới có thể duy trì sức sản xuất của đất nước và sản xuất đủ của cải vật chất để mang lại sức sống mới cho đất nước. Vì vậy điều này cũng có nghĩa là nền kinh tế có quan hệ mật thiết với chất lượng cuộc sống của con người. Ngoài ra, đánh giá từ kết quả hoạt động của các quốc gia khác nhau, cuộc đấu tranh sinh tồn giữa các quốc gia là tàn khốc, và phát triển kinh tế không chỉ có thể ổn định tình hình an ninh xã hội trong một quốc gia, mà còn góp phần bảo đảm sức mạnh quân sự, đối ngoại của quốc gia đó. Trong tương lai, tình hình quốc tế sẽ thay đổi, và chỉ với sức mạnh kinh tế bền vững làm nền tảng, chúng ta mới có thể bảo đảm an ninh của chính mình.

Vì vậy, phát triển kinh tế là vấn đề hết sức quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào. Chỉ khi kinh tế phát triển đủ mạnh thì sự ổn định lâu dài của một quốc gia mới được bảo đảm. Bằng cách hiểu rõ động lực chính của phát triển kinh tế, thông qua đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu. Chỉ khi yếu tố này hòa nhịp, hỗ trợ nhau và cùng nhau phát triển thì nền kinh tế đất nước mới có thể vươn đến đỉnh cao mới./.