TCCSĐT - Thủ tướng Đức A. Merkel thực hiện chuyến thăm từ ngày 01 đến 03-5 tới 3 quốc gia châu Phi gồm Burkina Faso, Mali và Niger. Trọng tâm của chuyến thăm là kiến tạo hòa bình, xử lý các vấn đề chống khủng bố, ngăn chặn dòng người di cư bất hợp pháp, đồng thời khẳng định chiến lược mới của Đức đối với Lục địa đen.

Đức thực hiện chiến lược mới với châu Phi

 
Thủ tướng Đức A. Merkel và Tổng thống Burkina Faso Roch Marc Christian Kabore. Ảnh: dw.com

Trong chuyến thăm Burkina Faso, Thủ tướng A. Merkel cho biết sẽ viện trợ 20 triệu euro cho Burkina Faso và 35 triệu euro cho Niger nhằm phục vụ các dự án hỗ trợ phát triển, trang bị và huấn luyện cho lực lượng cảnh sát. Cũng trong thời gian ở thăm Burkina Faso, Thủ tướng A. Merkel đã tham dự cuộc họp với các nhà lãnh đạo nhóm G5 Sahel, vốn đang hợp tác chống lực lượng Hồi giáo cực đoan ở vùng rìa phía Nam sa mạc Sahara. Theo bà A. Merkel, châu Âu chia sẻ trách nhiệm với nhóm G5 Sahel trong việc giải quyết mối đe dọa này. Thủ tướng A. Merkel cũng đã thảo luận với Tổng thống Burkina Faso Roch Marc Christian Kabore về hợp tác trong vấn đề an ninh. Hiện nay, Burkina Faso đang phải hứng chịu các vụ tấn công đẫm máu ngày một gia tăng do các nhóm cực đoan tiến hành.

Bên cạnh cuộc gặp Thủ tướng Mali Boubou Cisse và Tổng thống Niger Mahamadou Isoufou trong chuyến thăm hai nước này sau đó, Thủ tướng A. Merkel đã tới thăm binh sĩ Đức tham gia sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở Mali, thảo luận với đại diện các tổ chức xã hội và gặp gỡ sinh viên ở Mali, thăm địa điểm xây dựng một nhà tạm lánh dành cho phụ nữ ở Niger. Mục đích chuyến thăm là truyền tải thông điệp hỗ trợ của Chính phủ Đức tới các nước trong khu vực.

Những năm gần đây, Thủ tướng A. Merkel đã đặt châu Phi ở vị trí ưu tiên trong các chính sách của mình, đồng thời thực hiện chiến lược mới đối với châu Phi. Cụ thể, Chính phủ Đức đã ban hành “Hướng dẫn chính sách của chính phủ liên bang đối với châu Phi”, trong đó đưa ra các biện pháp nhằm nắm bắt cơ hội, phòng ngừa rủi ro, khủng hoảng, giải quyết xung đột và xây dựng hòa bình tại Lục địa đen. Chính sách của Đức về châu Phi đề cập tới các lĩnh vực chính, gồm xây dựng hòa bình, phát triển, di cư, hợp tác với các đối tác châu Phi. Hướng dẫn cũng đưa ra các công cụ tổng hợp về ngoại giao, phòng, chống khủng hoảng, ổn định tình hình, hợp tác phát triển và phát triển kinh tế. Bộ Ngoại giao Đức khẳng định, sự phát triển của châu Phi có tác động trực tiếp đến Đức và Liên minh châu Âu (EU). Là quốc gia chú trọng tới xuất khẩu, Đức chú ý đến tiềm năng phát triển kinh tế của các nước châu Phi. Đức khẳng định, châu Phi là lục địa với nhiều cơ hội, như sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên, dân số trẻ và môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn đóng vai trò nền tảng cho các thị trường năng động.

Chiến lược của Đức và EU tại châu Phi tập trung thúc đẩy tăng trưởng bền vững, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân và tăng cường thương mại với châu lục, thúc đẩy chính sách hỗ trợ châu Phi phát triển toàn diện. Hơn nữa, chính sách hỗ trợ châu Phi phát triển toàn diện có liên quan mật thiết đến vai trò, vị thế và quyền lực mềm của Đức trên trường quốc tế. Việc thúc đẩy các mối quan hệ gần gũi mà Đức đang tiến hành là một phần của mục tiêu lớn hơn nhằm giúp các nước châu Phi ổn định lâu dài, giảm các cuộc di cư ồ ạt tới châu Âu. Đây là vấn đề mà bà A. Merkel vốn phải đối mặt với nhiều chỉ trích tại Đức. Năm 2015, quyết định mở cửa đón dòng người tị nạn của Thủ tướng Đức đã gây chia rẽ sâu sắc trong nước cũng như châu Âu. Chính vì thế, thời gian gần đây, Chính phủ Đức nhiều lần nhận định, để chặn được làn sóng tị nạn lâu dài, phải ngăn chặn ngay tại châu Phi, thay vì các biện pháp kiểm soát biên giới hay hành chính thiếu đồng bộ và hiệu quả trong khu vực châu Âu. Để làm được điều đó, Đức tăng cường hỗ trợ các nước châu Phi, nhất là trong lĩnh vực đào tạo nghề cho lao động trẻ nhằm giữ chân lực lượng này ở lại khu vực.

Có thể thấy, chuyến công du tới 3 quốc gia Tây Phi đã thể hiện sự quan tâm hơn của Berlin, đồng thời là minh chứng cụ thể cho những cam kết mà nhà lãnh đạo nền kinh tế đầu tàu châu Âu từng đưa ra đối với lộ trình phát triển châu Phi.

Thổ Nhĩ Kỳ - Iraq thúc đẩy quan hệ song phương

 
Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ M. Cavusoglu và Ngoại trưởng Iraq Mohammed al-Hakim. Ảnh: mfa.gov.tr

Hợp tác song phương trong các lĩnh vực chống khủng bố, tăng cường trao đổi thương mại và các nỗ lực tái thiết nhiều khu vực ở Iraq được giải phóng từ tay phiến quân của Tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng là những chủ đề chính trong chuyến thăm Iraq (từ ngày 28-4 đến 02-5) của Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ M. Cavusoglu.

Iraq được Ankara coi là một “mắt xích” quan trọng trong các chiến dịch chống khủng bố cũng như kiềm chế việc người Kurd mở rộng ảnh hưởng trong khu vực. Nhưng đây cũng là vấn đề từng gây mâu thuẫn giữa hai nước, bởi Thổ Nhĩ Kỳ từ lâu coi đảng Lao động người Kurd (PKK) là một tổ chức khủng bố khi lực lượng vũ trang thuộc PKK ở Thổ Nhĩ Kỳ đòi ly khai và nuôi giấc mơ thành lập vùng lãnh thổ tự trị. Các lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ thường xuyên tiến hành những chiến dịch quân sự nhằm vào các vị trí của PKK tại miền Bắc Iraq. Baghdah nhiều lần chỉ trích các cuộc không kích của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ là sự xâm phạm chủ quyền, an ninh và dân sự của Iraq, cũng như đi ngược lại những quy tắc về quan hệ láng giềng. Trong khi đó, Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố các đợt không kích này nhằm bảo vệ biên giới và ngăn chặn khủng bố. Tuy nhiên, việc Chính quyền tự trị người Kurd (KRG) tiến hành cuộc trưng cầu dân ý trái phép nhằm đòi độc lập hôm 25-9-2017 đã mở đường cho Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq cải thiện quan hệ vì chính phủ cả hai nước đều kịch liệt phản đối người Kurd Iraq độc lập và coi cuộc trưng cầu dân ý này là vi hiến.

Hiện nay, việc Mỹ quyết định rút quân khỏi Syria được xem là thời điểm thuận lợi để Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành các chiến dịch nhằm trấn áp người Kurd, vốn được Mỹ hậu thuẫn. Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ hiện không có một lực lượng tại Syria đủ lớn, đủ kinh nghiệm hay đủ tính chính đáng để kiểm soát phía đông quốc gia Trung Đông này, nơi lực lượng người Kurd hiện diện. Trong bối cảnh đó, việc Thổ Nhĩ Kỳ “bắt tay” với Iraq trong vấn đề kiềm chế người Kurd được cho là một tính toán chiến lược, một “nước cờ” hợp lý nhằm giúp Ankara thực hiện các mục tiêu của mình trên “bàn cờ” địa - chính trị ở khu vực. Chính vì vậy, trong chuyến thăm này, Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ M. Cavusoglu tập trung thảo luận với Ngoại trưởng Iraq Mohammed al-Hakim về cuộc chiến chống khủng bố và sự hiện diện của các nhóm khủng bố ở khu vực biên giới Iraq - Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoại trưởng M. Cavusoglu nhấn mạnh: “Việc hợp tác với các nước láng giềng là vô cùng quan trọng”, đồng thời khẳng định Ankara không chỉ sẵn sàng tiêu diệt IS mà còn quét sạch phiến quân của đảng Lao động người Kurd (PKK) và các nhóm khủng bố khác ra khỏi khu vực biên giới.

Không chỉ có vậy, trong bối cảnh Mỹ vừa chính thức dừng cấp quy chế miễn trừ cho các nước mua dầu thô của Iran, trong đó có Thổ Nhĩ Kỳ, chuyến thăm Iraq cho thấy, Ankara đang tìm các nhà cung cấp dầu thô thay thế Iran mà Iraq là quốc gia có nguồn dự trữ dầu thô lớn.

Về lĩnh vực hợp tác thương mại, kim ngạch trao đổi thương mại song phương giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq đạt 11 tỷ USD năm 2013, nhưng lại sụt giảm mạnh trong năm 2018 do tác động của cuộc chiến chống IS. Mối quan hệ chính trị giữa hai nước cũng rơi vào tình trạng bất ổn định trong khoảng thời gian này. Do vậy, cả hai nước đều đặt kỳ vọng thúc đẩy hợp tác kinh tế sau cuộc gặp giữa Tổng thống T. Erdogan và người đồng cấp Iraq Bahram Salih hồi tháng 01-2019. Trong khi đó, một đất nước Iraq vừa thoát khỏi sự tàn phá của IS và đang bước vào thời kỳ tái thiết là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư Thổ Nhĩ Kỳ. Thổ Nhĩ Kỳ đã đề xuất cho Iraq vay nợ 5 tỷ USD phục vụ tái thiết đất nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang tìm cách tham gia vào các dự án đầu tư và tái thiết tại Iraq với nguồn tài chính ước tính lên tới 88 tỷ USD.

Với những cam kết tăng cường hợp tác về thương mại và chống khủng bố, cũng như tìm kiếm cơ hội kinh doanh trong công cuộc tái thiết Iraq, chuyến thăm Iraq của người đứng đầu Bộ Ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ được coi là cơ hội thúc đẩy hợp tác giữa hai quốc gia láng giềng.

Nhìn lại Hội nghị Thượng đỉnh Nga - Triều

 
 Tổng thống Nga V. Putin và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un. Ảnh: AFP/TTXVN

Dù không có tuyên bố chung cũng không ký kết văn kiện chung, song cả hai nhà lãnh đạo của Nga và Triều Tiên đều tỏ ra hài lòng về cuộc gặp thượng đỉnh giữa hai bên. Với cuộc hội đàm kín kéo dài thời gian hơn so với dự kiến, một cuộc hội đàm mở rộng và những tuyên bố của hai nhà lãnh đạo sau hội nghị thượng đỉnh cho thấy cuộc gặp đầu tiên này đã đạt được mục tiêu mà hai bên đề ra, đồng thời mở ra cơ hội thúc đẩy hợp tác Nga - Triều.

Tại cuộc gặp thượng đỉnh với Tổng thống Nga V. Putin tại thành Phố Vladivostok, với tinh thần cởi mở và thẳng thắn về các vấn đề nghị sự, hai nhà lãnh đạo đã tập trung thảo luận về nhiều vấn đề, bao gồm vấn đề phi hạt nhân hóa trên Bán đảo Triều Tiên, quan hệ song phương Nga - Triều, quan hệ giữa Triều Tiên và Mỹ… Ngoài ra, hai nhà lãnh đạo cũng thảo luận các khía cạnh khác nhau của quan hệ song phương, trong đó có quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa.

Liên quan đến vấn đề đàm phán hạt nhân, hai nhà lãnh đạo nhất trí phối hợp để thúc đẩy việc giải quyết vấn đề này. Về phía Nga, bằng tuyên bố các thỏa thuận song phương về bảo đảm an ninh là chưa đủ mà cần một cơ chế an ninh đa phương cho Bình Nhưỡng, và đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên với sự tham gia của Triều Tiên, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản sẽ giúp bảo đảm an ninh quốc tế, Moscow khẳng định Nga vẫn là quốc gia có trọng lượng và có trách nhiệm trong các vấn đề lớn toàn cầu. Tổng thống V. Putin nhấn mạnh đối thoại và hòa bình là biện pháp hiệu quả duy nhất để giải quyết các vấn đề, trong đó có vấn đề hạt nhân của Triều Tiên, và Nga sẽ tiếp tục nỗ lực để giảm căng thẳng trên Bán đảo Triều Tiên.

Liên quan đến quan hệ song phương, nhà lãnh đạo Triều Tiên hy vọng đưa quan hệ với Moscow “ổn định hơn và mạnh mẽ hơn”, khi một trong những mục tiêu của nhà lãnh đạo Triều Tiên tới Nga là tìm một lối thoát cho nền kinh tế bị kiềm tỏa của Bình Nhưỡng. Trong khi đó, Tổng thống V. Putin tin tưởng rằng, chuyến thăm của ông Kim Jong-un sẽ tạo “cú hích” cho các quan hệ ngoại giao và kinh tế giữa hai nước.

Tại Hội nghị, Tổng thống Nga đã kêu gọi hợp tác kinh tế 3 bên giữa Nga với Hàn Quốc và Triều Tiên. Lời kêu gọi này dường như đáp lại một ý tưởng trước đó của Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in trong một cuộc trả lời phỏng vấn truyền thông Nga, khi đó ông khẳng định, khi hòa bình được thiết lập trên Bán đảo Triều Tiên, hợp tác kinh tế liên Triều sẽ cần tới sự tham gia của Nga. Theo đó, những lĩnh vực tiềm năng trong hợp tác kinh tế 3 bên là hệ thống đường sắt, đồng ống dẫn khí đốt và mạng lưới điện.

Theo các nhà phân tích nhận định, việc Triều Tiên “xích lại gần” Nga trong bối cảnh hiện nay được cho là “một mũi tên trúng nhiều đích”. Trước hết, Nga là một đối tác kinh tế quan trọng và là một trong những nước viện trợ nhân đạo chủ chốt cho Triều Tiên khi quốc gia này vẫn hứng chịu các lệnh trừng phạt quốc tế. Trong giai đoạn 2011 - 2017, Nga đã cung cấp lương thực viện trợ nhân đạo cho Triều Tiên trị giá 25 triệu USD; giai đoạn 2018 - 2019 là thêm 8 triệu USD. Về mặt chính trị, Nga có thể coi là đồng minh của Triều Tiên. Nga là một thành viên trên bàn đàm phán 6 bên nhằm giải quyết vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên và luôn ủng hộ giải pháp ngoại giao cho vấn đề này. Năm 2017, khi căng thẳng giữa Mỹ và Triều Tiên leo thang, Nga cùng Trung Quốc đã đề xuất cơ chế “cùng đóng băng”, tức là Mỹ và Hàn Quốc ngừng các cuộc tập trận chung, còn Bình Nhưỡng chấm dứt thử tên lửa và hạt nhân, làm tiền đề nối lại đàm phán. Bởi vậy, đối với Triều Tiên, thông qua việc củng cố quan hệ với Nga, vị thế của Bình Nhưỡng trên bàn đàm phán hạt nhân, kể cả đàm phán với Mỹ, có thể tăng thêm sức nặng. Chưa kể việc gia tăng quan hệ với Nga giúp Triều Tiên giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc, ít nhất là về mặt kinh tế.

Trong khi đó, về phía Nga, trong bối cảnh quan hệ với phương Tây căng thẳng, Triều Tiên là một nhân tố quan trọng trong việc triển khai chính sách “hướng Đông” của Nga. Thời gian qua, Nga đã muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế với Triều Tiên nhằm triển khai các dự án liên Triều về cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng như kết nối với hệ thống đường sắt liên Triều, đường ống khí đốt từ Nga sang Bán đảo Triều Tiên… Tuy nhiên, những căng thẳng trên Bán đảo Triều Tiên cùng lệnh cấm vận quốc tế nhằm vào chương trình hạt nhân của Bình Nhưỡng đã gây nhiều khó khăn cho Nga trong việc đạt được mục tiêu trên. Năm 2018, kim ngạch thương mại hai nước giảm tới 56%. Vì thế, Nga đã không ít lần nêu đề xuất dỡ bỏ một phần các biện pháp trừng phạt quốc tế đối với Bình Nhưỡng. Chỉ khi đó, Nga và Triều Tiên mới có thể tận dụng tối đa tiềm năng của hai nước và đưa quan hệ hợp tác song phương trên tất cả các lĩnh vực đi vào thực chất và hiệu quả.

Gần đây, vai trò của Nga trong giải quyết vấn đề hạt nhân Triều Tiên chưa được coi trọng đúng mức sau khi các cuộc đàm phán 6 bên bị đình trệ. Cuộc gặp thượng đỉnh Nga - Triều lần này là cơ hội tốt để Nga thể hiện rõ hơn vai trò và ảnh hưởng của mình đối với việc giải quyết một điểm nóng an ninh của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời giúp Nga chủ động hơn trước cơ chế giải quyết song phương hay đa phương.

Với việc nhất trí trong nhiều vấn đề quan trọng, cuộc gặp thượng đỉnh Nga - Triều lần này đã tạo được nền móng để hai bên có thể phối hợp chặt chẽ hơn trong các vấn đề mà cả hai nước có cùng lợi ích. Đặc biệt trong bối cảnh các cơ chế đàm phán để giải quyết vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên đang đình trệ, cuộc gặp thượng đỉnh Nga - Triều có thể trở thành “chất xúc tác” quan trọng mở ra hướng tháo gỡ thế bế tắc./.